Trong Lòng Cách Mạng

VÕ HOÀNG

Được Cao vác bó tre về tới ngã ba cây chôm thì trời cũng vừa đứng bóng. Anh cảm thấy như cái sống lưng như muốn gẫy cụp lại, một bên ngực đau nhói, đau từng nhịp theo mỗi bước chân. Từ đó tới cây cầu ván bắc ngang đường mương trước nhà đâu khoảng năm bẩy chục thước nhưng biết mình có rán cũng không nổi, Được Cao lầm bầm:

“Nghỉ đã, còn có chút xíu, gấp gáp gì.”

Được Cao nghiêng người hất bó tre xuống bờ cỏ xong chống nạnh nhìn chầm chập vào nó một cách ngao ngán. Buổi trưa trời u u mà vẫn nóng, anh thấy bực bội trong mình quá, nhưng không biết phải làm sao nên chỉ thở hắt một cái thật mạnh rồi chầm chậm ngồi xuống đất, lột tấm áo đang cột ngang lưng ra, tìm một chỗ sạch nhất lau mồ hôi mặt.

“Tự dưng buồn ngủ kỳ thiệt!”

Được Cao luồn tay vô cái đầu tóc sói vuốt nhè nhẹ, thấy nản quá. Chiều hôm qua con mẹ Năm Đàn tới nói hoài về cái chương trình làm lễ rồi rốt cuộc nhờ anh phụ trách việc làm cho mấy chục cái lồng đèn, lớn nhỏ đủ thứ cỡ. Điều mà Được Cao ghét nhất là cái giọng của con mẻ ngọt lịm mà nghe cho kỹ thì luôn luôn có vẻ hăm doạ, và mỗi chuyện được lặp lại ít ra cũng ba lần.

Nghe thì ghét, nhưng không nghe thì không được. Nghe rồi lại càng không được vì tối lại, Được Cao ngẫm nghĩ tới trường hợp của ông Phùng, trường hợp của thằng Cam, mỗi người mỗi chuyện xem ra không có gì quá đáng mà cũng phải đi Miệt Thứ năm sáu tháng nay chưa thấy ai về nên cũng hơi lo. Thành ra, cuối cùng. Được Cao cũng phải quyết định sáng thức sớm đi chặt tre.

“Kệ mẹ nó.”

Hồi sáng lúc Được Cao ngồi bờ mương mài cây dao yếm chưa kịp tới nước bùn thì đã thấy mẹ Năm Đàn đạp xe ghé lại. Thấy anh ngồi chồm hổm trên cầu ván, mẽ không tiện dắt xe qua nên đứng trên lề đường nói trỏ xuống:

“Tưởng thầy chưa thức, tui ghé qua kêu. Đi đôn đốc cho công việc tốt đẹp vậy mà. Tui lo quá.”

“Tui cũng lo tui mới phải dậy sớm chớ. Mà tui lo phải đi Miệt Thứ kìa,” Được Cao nói thầm và ngước nhìn mẹ Năm Đàn thay cho câu chào hỏi.

“Thiệt cả xóm này, đúng ra, nhi đồng cả xóm này chỉ cậy có mình thầy, thầy cũng rán cho. Có gì trục trặc, thầy cho tui hay liền nghe, tui giải quyết.”

“Giải quyết cái mả mẹ tui, ai mà dám trục trặc.” Được Cao cầm dao yếm thọc xuống mương, đưa qua đưa lại cho sạch rồi cười gượng:

“Chị Năm làm ơn lo giùm tui cái vụ giấy dán sơm sớm. Với lại bột khuấy hồ. Đưa trễ kẹt lắm. Còn có mấy ngày hà.”

“Rồi, để đó cho tui. Thế nào thì phòng thương nghiệp cũng đáp ứng được. Mà mình còn phải điều nghiên lại hệ thống phân phối. Chiều ngày mốt xong hết, tui ghé lại thầy, mình bàn.”

Mẹ Năm Đàn còn nói nhiều nữa nhưng Được Cao nhớ không hết. Khi con mẽ đi rồi, anh mới hay là ngồi thừ ra đó lâu lắm, mà dao thì mài chưa xong.

“Sáng sớm, gặp đàn bà ăn nói lộn xộn, thấy ghét quá. Phần điều nghiên, phần phân phối là phần của mẹ, tui can chi mà dính vô đó. Làm xong mấy chục cái lồng đèn trong hai ba ngày chắc dễ à, mệt bá thở chớ chơi sao.”

Rồi suốt buổi đốn tre, Được Cao cứ cảm thấy hậm hực trong mình. Anh nghĩ mà thấy thương cho mấy đứa nhỏ. Đương không có nơi có chỗ học hành đàng hoàng mà phải theo ba má ra ở ngoài này. Cả năm rồi, con Thành quên tuốt cách đọc cách viết. Thằng Công đáng lẽ năm nay học lớp một mà bây giờ suốt ngày ở ngoài nắng và chỉ biết lượm nhánh cây khô về nhà làm củi, rồi lại lật đá kiếm trùng cắn câu. Trưởng ấp nói năm tới sẽ có trường, Được Cao chỉ biết năm tới sẽ có trường. Mẹ Năm Đàn hội phụ nữ nói sẽ tổ chức nhi đồng thành một đội ngũ cho năm tới, đâu đó có nề nếp để việc giáo dục “tiến bộ ngay từ bước đầu,” Được Cao cũng chỉ biết có vậy.

Lâu nay, tụi nhỏ cũng phải đi họp liền liền, học hát chứ chưa học chữ. Có khi, vợ chồng Được Cao đi họp đằng ấp, tụi nhỏ đi họp nhà mẹ Năm, khuya mới về, rồi mệt, buồn ngủ, bực bội không ai còn muốn ăn khoai. Tụi nhỏ đen và ốm như cò ma…

Bây giờ Được Cao ngồi đây, buồn ngủ mà đâu có dám ngủ. Chút nữa về, phải qua nhà bà Phùng mượn cây mác vót, chiều nay chẻ cho hết bó tre, tối đốt đèn dầu mà chuốt. Được Cao thở thườn thượt, lại thấy cái ngực đau nhói lên.

“Dạy học cả chục năm mà mạnh như trâu, ra đây mới có một năm mà sanh đủ thứ bệnh.” Được Cao vòng hai tay quanh đầu gối, ngước nhìn trời và sẵn cái bực trong mình, anh bực luôn với cái bóng mát lỗ chỗ của cây chôm. Được Cao khạc mấy cái, phun nước miếng càu nhàu:

“Mẹ, mang tiếng cây chôm chôm mà chưa khi nào có trái, cao chòng ngòng mà lá lưa thưa.”

Hình như thấy mình hơi kỳ, Được Cao lắc lư cái đầu rồi thủng thẳng ngồi dậy, lấy bộ đưa bó tre lên vai. “Về cho rồi.”

Tới nhà, chưa kịp quăng bó tre đã nghe tiếng chị Được cằn nhằn đứa nào đó:

“Hỏi ba mầy. Tao đã dặn có đi họp về, người ta nói cái gì thì nói lại cho ba mày nghe, đừng có nói với tao.”

Được Cao nhăn mặt, hất mạnh bó tre, đưa tay quẹt mũi.

“Con mẹ này ra ngoài đây ở, mệt nhọc riết rồi sinh tật, nói chuyện với con cái, nói toàn mày tao. Kỳ!”

Anh vỗ vỗ cánh cửa:

“Cái gì đó? Cái gì đó? Đứa nào, ra đây nói ba nghe coi.”

Thằng Công ra trước, kế đó là con Thành, nhưng hai đứa không đứa nào nói gì hết. Chị Được vừa đi từ trong ra, vừa nói:

“Tụi nó đi họp sáng nay, người ta dặn về nói lại với cha mẹ, mỗi đứa xin năm chục xu đóng tiền quà, năm chục xu đóng tiền lồng đèn, rồi lèm bèm với tui cả buổi, tui biểu chút nữa về nói lại với anh. Đó, anh tính sao với tụi nó thì tính đi, tui hết biết rồi.”

Được Cao nhìn con Thành, rồi nhìn thằng Công, thấy đứa nào cũng có vẻ khẩn trương. Anh muốn hét lên một tiếng thật to nhưng ngại tụi nhỏ sợ nên dằn xuống, quay nhìn ra ngoài.

“Trời ơi, phải chi tụi nó quên luôn là không có ngày tết Trung Thu, không có ngày lễ Nhi Đồng gì hết, tụi nó sẽ hồn nhiên hơn và mình cũng không phải nghĩ ngợi gì nhiều trong hoàn cảnh này. Xót xa quá mà không tránh được…”

Con mẹ Năm Đàn! Con mẹ này ghê thiệt! Tùy theo người mẽ nói một kiểu khác nhau, mà không ngượng miệng chút nào, nhất là không coi người ta ra gì hết. “Trưởng ấp lo phần liên hệ với xã ủy nhận quà và phân phối. Còn tui, phòng thương nghiệp sẽ cất vật liệu làm lồng đèn. Đúng thì chỉ có giấy thôi, tui xin thêm bột hồ. Phần làm sườn, tui nghĩ ngay đến thầy. Tui biết thầy làm được. Một năm có một lần, tụi em nhỏ mong mỏi quá. Mà mình không thể bỏ bê tụi nhỏ nó được, mấy ông trên huyện biết khó lòng lắm.” Được Cao nghĩ tới cái mặt chành bành của mẹ Năm Đàn thì nghiến chặt răng lại, thở nhè nhẹ.

Một chút, anh nhỏ giọng:

“Chừng nào người ta kêu góp tiền, ba cho hai đứa, mỗi đứa một đồng. Lần sau có gì thì về nói lại với ba, chớ nói với má, má rầy rán chịu, nghe chưa.”

Tụi nhỏ hí hửng lộ ra mặt. Thằng Công mở miệng định nói gì đó thì Được Cao cười cười nói hớt:

“Mà nhớ đem quà về chia cho ba má với nghe.”

Hai đứa vui hẳn và lòn cửa hông ra vườn. Chị Được bước tới cửa, thấy bó tre, quay lại hỏi chồng:

“Anh đốn tre làm thêm cái trái nhà phải không?”

Được Cao chưa kịp trả lời, chị nói luôn:

“Hồi nãy bà Năm Đàn có ghé, hỏi anh có nhà không, tui nói không. Bả đi liền. Mà làm gì tui thấy chiều qua anh ngồi ngoài đám khoai với bả vậy?”

“Thì đó! Sáng nay thức sớm, đi sớm, em còn ngủ nên không nói, hôm qua thì trong mình bực bực cũng không nói… Mẹ Năm Đàn tới biểu làm cho mấy chục cái lồng đèn, nói là năm nay đãi ngộ nhi đồng, nhà nước làm sẵn phân phát, mà ấp mình xa quá, phải tự làm cho kịp. Mẹ nó, rốt cuộc mình bịnh nghỉ một tuần, trúng mối này, chết tiêu.”

Chị Được há hốc miệng, nghe mà không nói gì hết. Chị nhìn cái vẻ khinh khỉnh của chồng, thấy buồn cho cả hai. Mấy tháng đầu tới ở đây, chị còn lạc quan nghĩ rằng dầu sao thì vợ chồng con cái đùm bọc với nhau, bất cứ ở đâu cũng thấy yên lòng. Rán chịu cực khổ lúc đầu, lần lần chắc khá lên được. Từ một căn chòi nửa mái nhận lãnh được, chị cật lực giúp chồng chấn chỉnh lại cuộc sống, với cái hy vọng tạo dựng lại một phần những thứ mà mình có được trước kia, cũng đủ rồi.

Vậy mà không biết từ lúc nào, chị quên tuốt luốt những câu đùa duyên dáng tạo niềm vui cho chồng con, chị cũng quên luôn những công việc nho nhỏ tạo niềm vui cho chính mình, dạy cho con Thành làm toán, dạy thằng Công đánh vần chẳng hạn. Mà chỉ mình chị vậy thôi sao, anh Được càng lúc càng lầm lì, đã ít nói còn sanh thêm gắt gỏng. Chuyện hôm qua tới giờ, phiền như vậy mà cũng không nói một tiếng. Chị thỏ thẻ:

“Đờm anh khạc cũng còn nhiều chỉ máu, sao không phân bó tre làm hai mà vác cho nhẹ. Phải chi anh kêu tui dậy, tui đi theo, tui vác tiếp.”

Lúc này, Được Cao đã nằm hẳn trên sạp tre. Nghe cái kiểu vợ nói, anh biết thế nào cũng đi tới chỗ vừa nói, vừa hỉ mũi. Được Cao ngán nhất là chuyện đó. “Mình đã rầu thúi ruột rồi, nghe đàn bà vừa kể chuyện không không ở đâu vừa khóc thút thít thì chịu sao nổi.” Anh hỏi trỏng:

“Hấp khoai chưa?”

“Mới bằm xong, chưa hấp.”

Biết chồng đánh trống lảng, chị Được tủi thân nấc nhẹ một tiếng. Được Cao quay mặt vô vách, ỡm ờ:

“Ăn khoai ngán thiệt chớ không phải chơi. Em ngán không?”

“Tui nói rồi cách đây cả năm còn hỏi.”

“Tại ăn khoai, anh lở cuống họng chớ đâu phải tại bịnh phổi. Sang năm, kinh đào xong, có nước trồng lúa, anh hết bịnh liền chớ gì. Sang năm… Lẹ mà.”

Chị Được hậm hực:

“Chuyện gì anh cũng nói chơi được hết.”

Rồi hai vợ chồng im lặng thật lâu. Buổi xế trưa ở vùng đất mới khai phá lặng lẽ và trống trải, sao lòng người hình như ai cũng thấy bị dìm xuống bằng chính cái trống trải đó, và cái lặng lẽ bên ngoài hòa với cái lặng lẽ trong người, nghe ra như một thứ ẩn uất, chất chứa toàn những chuyện không vừa ý. Chị Được bỗng hỏi:

“Anh hứa cho tụi nhỏ tiền là cho thiệt hả? Mình còn có mấy đồng…”

“Ờ, ờ.” Được Cao quay ra. “Phải chi anh giải thích được cho tụi nhỏ nó hiểu thì anh đã làm. Đằng này, việc này, không phải chỉ là việc của tụi nhỏ không thôi, em phải hiểu. Thời buổi này, con nít hay người lớn cũng đều được coi như nhau, mà điều cái kiểu hơi khác một chút… Khi nào mình hết sống nổi thì mình biết, chớ con nó còn quá nhỏ, anh không muốn thấy tụi nó khổ sớm.”

Chị Được im lặng. Ở ngoài sân, chắc con Thanh bẻ nhánh cây sắp lại để làm củi, tiếng kêu răng rắc, nghe buồn quá. Thằng Công không biết đang làm gì mà có lẽ vừa ở xa xa vừa hát: “Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng…” Cái bài mà trước đó, ông Phùng vì cấm con hát nên phải đi Miệt Thứ. Được Cao chợt gắt với vợ:

“Qua bà Phùng mượn cây mác vót, nói là hai ba bữa sẽ trả.”

Chị vợ xì nhẹ một tiếng rồi đi về phía sau. Chắc chị hơi lấy làm lạ về thái độ của chồng nhưng không thèm tìm hiểu. “Hồi ở ngoài thành, thất nghiệp, cũng đói cỡ này mà anh đâu có quạu cọ.” Chị nghĩ tới độ đường từ đây qua nhà bà Phùng hơi ngán.

Được Cao lại quay vô vách, lần này thì kéo áo dưới lưng lên đắp phần đầu lại, rán ngủ một chút. Chưa kịp nóng lưng, tiếng hát thằng Công văng vẳng đong đưa từ đàng xa: “Em là búp măng non, em lớn lên trong lòng cách mạng…” Chắc thằng nhỏ vừa nhẩy cò cò vừa hát, tiếng lớn tiếng nhỏ. Được Cao trở mình lầm bầm:

“Ờ, ờ. Lớn lên trong lòng cách mạng… Ở đây mà có mả đậu, tao gỡ hột, nấu nước cho hai đứa bay uống, ỉa chẩy hai ba ngày đơ cán cuốc, hết trung thu, hết nhi đồng. Mẹ, búp măng non… Ờ, ờ, trong lòng cách mạng…”

Ngoài sân, vẫn còn tiếng con Thành bẻ cây răng rắc.


Trong Lòng Cách Mạng, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Tàn Nho

VÕ HOÀNG

Khu chung cư này, ai cũng biết ngày mai ông Thiên gả đứa con gái lớn. Hồi chiều tới giờ, có hai ba nhóm ông già bà cả đi vô đi ra liền liền. Bà chị Sáng nhà kế bên nói với chồng:

“Con nhỏ coi vậy mà nó có phước thiệt chớ hổng phải chơi, thằng chồng nó tướng đi hiền khô mà gương mặt sáng sủa lắm. Nghe nói cũng làm chung hãng với con Lương. Tụi nó khá lắm.”

Bà Nghĩa ở căn đối diện thì nói với đứa con gái:

“Tao tưởng ông Thiên ăn ở hiền lành thì trời thương, ai dè cưới nhằm thằng rể không ra gì hết. Người gì mà đoản hậu, thiếu âm đức thấy rõ. Nó đi, tao ngó đằng sau lưng, tao biết thứ này không khá được. Mà thôi, chuyện của người ta mình lo làm gì cho mệt.”

Đó là chuyện của nhà ông Thiên. Vợ chồng con cái nhà ông Thiên đương lo và đương mệt. Mệt nhứt là con Lương. Không phải nó mệt vì làm nhiều việc này việc nọ để chuẩn bị cho cái lễ cưới của nó ngày mai. Mọi thứ thì gần như có người khác lo cho hết rồi, nó mệt vì phải nghe ba má nó cắn đắn nhau về những chuyện ở đâu đâu. Rồi ông Thiên mệt vì phải kiếm đủ thứ lý lẽ để nói cho vợ nghe; bà Thiên mệt vì phải kiếm cho có chuyện để cãi lại chồng. Chỉ có mấy đứa em con Lương là không mệt. Tụi nó, đứa lớn thì rủ nhau đóng cửa phòng nghe nhạc, mấy đứa nhỏ ở tuốt ngoài bãi đậu xe chơi trò cút bắt.

Khi ông Thiên biết chắc rằng giờ này hết còn khách khứa tới nhà nữa, ông bắt đầu đổi giọng, lớn tiếng với vợ:

“Bà đừng có tưởng qua tới đây rồi bà muốn làm gì thì làm. Nhà hổng có bàn thờ ông bà thì thôi, mà hễ có thì phải cúng kiến cho đủ lễ. Nói chuyện với ai cũng vậy, lúc nào bà cũng hớt hớt cái miệng rồi cái gì cũng xứng sái cho qua, đâu có được! Tui, hổng lẽ tui nói lại theo ý tui, người ta cho là mình khó tính, người ta cho là vợ chồng với nhau mà ăn nói hai ba đàng. Nín, thì bực chịu hổng nổi.”

Bà vợ gục gặc đầu hai ba cái rồi ngồi sà xuống sa lông, nghiêm nét mặt, gằn từng tiếng:

“Bây giờ ông muốn nói cái gì thì nói cho hết đi. Mai sáng người ta tới nhà thì làm ơn dẹp bỏ cái bản mặt chầm dầm của ông đó. Mà ông làm eo làm sách người ta như vậy có ích gì? Ông nói coi!”

“Tui làm eo làm sách người ta cái gì?”

“Vậy chớ liên tiếp mấy tháng nay, ông bày đủ thứ thập vật để báo người ta. Từ cái lễ gì kêu là nạp thể, vấn danh, rồi nạp cát nạp kiết. Gả thì gả phứt cho rồi còn bày đặt!”

Ông Thiên cười nhạt:

“Cái thân thằng này hồi trước cưới vợ, không bị người ta bày đặt chắc? Bà nên nhớ, phải chi tui đòi vàng vòng bạc nén nhà bà đâu. Đàng này, tui chỉ muốn người ta làm cho đủ lễ đủ nghĩa như ông già tui hồi trước phải làm vậy đó.”

“Bộ ông ức chuyện cũ hả?”

“Cái gì mà ức. Bà đừng có lảng lảng. Người ta nói ‘quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ.’ Cái đạo vợ chồng là cái đạo lớn nhất trong đạo làm người. Bước đầu này, mình không để cho tụi nhỏ nó có ý nghĩ trịnh trọng trong việc cưới hỏi, mai mốt tụi nó dễ coi thường tình nghĩa vợ chồng.”

“Ông đừng nói nho với tui. Chỉ cần nói bây giờ thì ông tính làm sao? Sáng mai là người ta tới, ông không được quạu quọ à nghe!”

“Tui tính làm sao hả? Tính cái gì? Tui muốn rằng tới cái lúc đưa con Lương về bên đó, hai đứa tụi nó cũng phải có bàn thờ ông bà để làm lễ chớ hổng phải rước dâu, rước ra khỏi nhà thì thôi. Người ta mà không coi trọng cái lễ, thì làm sao biết coi trọng họ nhà mình, coi trọng con gái mình. Ý tôi muốn là muốn như vậy đó.”

“Thì hồi nào tới giờ, mình đòi cái gì người ta cũng chịu, có thắc mắc gì đâu. Cho tới bây giờ, bên kia người ta sắm đã đủ đồ đạc hết rồi, ngày mai ông sẽ thấy.”

“Cái bà này –” ông Thiên đứng phắt dậy “– quanh co một hồi bà cũng đều nhắc lại ba cái lễ lộc cưới hỏi. Nó sắm vàng sắm bạc, sắm hột xoàn cho cả đống chớ nó khi dễ thì nó cũng khi dễ hà. Trừ khi nó chịu nghiêm chỉnh làm lễ ông bà thì tui mới cho là nó biết trọng người sống. Bà hổng thấy mấy cái lúc lễ nạp thể, vấn danh sao? Tui sắp đặt đâu đó rồi, ông bà sui hẹn lần hẹn hồi. Tới lễ hỏi, tui quỳ tui vái chớ con mắt tui liếc, tui thấy chớ đâu phải không. Ai đời mình thành khẩn vái ông bà mà người ta khều nhau, rồi cười khúc khích. Cái thứ đó, thiệt tình là lỡ rồi chớ tui mà biết trước, tui hổng thèm tiếp. Còn bà nữa, cứ vuốt đuôi theo người ta rồi rốt cuộc hổng ra gì hết. Hôn nhân nhi luận tài, di lỗ chi đạo dã. Cưới hỏi mà mở miệng ra nói toàn lời của phường mua bán, như cái thứ mọi rợ.”

Bà Thiên băt đầu im lặng, không cố nói nữa. Bà biết, dù sao ông Thiên cũng có lý của ông mặc dầu trong cuộc sống hiện tại, bà thấy nó hơi khắc khe. “Chẳng qua, có nhiều thứ không được vừa ý dồn nén lại, gặp dịp ổng tuôn ra cho đã nư đó mà. Ai đời hai ông bà sui là dân Tây mà ổng nói chuyện, nhứt định xổ nho chùm. Người ta không bực mình sao được. Rồi lần lần người ta cho là gàn, bướng. Nói cái gì người ta cũng ừ ừ hử hử cho qua. Bây giờ giận lẫy, gây với mình.”

Ông Thiên ngồi xuống:

“Thiệt thì tui cũng mong xong cái đám cưới này càng sớm càng tốt, chớ tui bực mình không tui cũng muốn bịnh.”

“Ai biểu ông bực!” bà Thiên nghĩ thầm. “Người gì mà cổ lỗ sỉ, lúc nào cũng khư khư giữ ba cái phép tắc cũ rích, không sợ người ta cười.”

Ông Thiên lại đứng lên:

“Tui hổng muốn thấy điều gì bực mình nữa hết. Ngày mai, người ta qua rước dâu, bà theo, bà đưa về bên đó. Tui hổng đi!”

Con Lương nãy giờ ngồi một góc, im lặng. Không phải chỉ quanh chuyện đám cưới của nó, nó mới phải nghe cái lối nói chuyện này của ba má nó. Mấy năm rồi, ông Thiên sanh cái bịnh gắt gỏng với hết thảy mọi người chung quanh, kể cả với tụi nhỏ. Với gia đình anh Hạnh, đáng lẽ ổng cũng nên để ý tới cái cảm tình thông gia mà nhìn lại mình một chút. Đôi khi, con Lương có cái cảm tưởng ba mình già trước tuổi, sanh tật trước tuổi già rồi, không còn là bịnh như má nó thường nói. “Ổng chưa yên ổn cuộc sống, chưa yên ổn trong lòng nên mang bịnh mà. Từ từ rồi hết, tụi bây lo làm chi.” Bây giờ thì cuộc sống yên rồi, mà bịnh đã thành tật, hết chữa.

Con Lương ngó cái điệu bộ của ba nó, đứng lên nói một câu, ngồi xuống nói một câu bằng cái giọng ngang ngang mà nghe cho kỹ, hết sức chí tình, nó chợt thấy thương. “Hồi còn ở nhà, chiều chiều ổng hay ngồi chồm hổm trước sân, nói tới chuyện gì cũng muốn chửi. Tưởng đâu tại vì cuộc sống khó khăn, gò bó rồi ổng đâm ra bực dọc. Ai dè qua tới bên này mới biết ổng thành tật.”

Nó biết, tự cái mặc cảm của ba nó đối với cuộc đời xa lạ – cái cuộc đời quá nhàn hạ mà thiệt tình ông Thiên không bao giờ muốn có – này đã làm cho ông tiếp tục sống với tâm trạng bị bạc đãi, bỏ rơi. Trước kia ông chán chường bao nhiêu thì bây giờ ông phẫn uất bấy nhiêu. Có hai thực trạng khắc nghiệt đã liên tiếp đeo đuổi và làm khó dễ ông lâu nay. Ở bên kia, có những cái đổi thay làm cho ông phải trầm ngâm từ ngày này qua ngày khác. Bên này, tự dưng ông cảm thấy mình đã đổi thay, rồi lại tiếp tục trầm ngâm. Động tới một chút là nổi cơn lên.

Con Lương đưa tay vuốt tóc, mắt vẫn không rời ba nó. “Cái điệu bộ này, một ngày nào mới đây, ổng im lặng một cách thảm não sau khi vui tay lật sơ qua tập vở của mấy đứa nhỏ.” Lần đó, không nói ra lời chớ trong đầu, con Lương biết rằng ba nó không hiểu gì về những chữ viết, những lời phê trong mấy cuốn tập.

“Mai này mình về nhà chồng rồi” – con Lương nghĩ – “mà ba ổng quạu quọ như vầy, cũng rầu.” Nó đứng dậy, đi về phía bàn thờ. Đưa tay vuốt nhẹ chữ song hỷ bằng giấy chiếu vàng ánh dán trên nhung đỏ, nó nói, như muốn phá tan cái không khí căng thẳng:

“Nhà mà có cái bàn thờ, coi sáng sủa quá hén má!”

Nó chưa dám bắt chuyện với ba nó. Vậy mà nó vừa dứt lời, ông Thiên nói hớt lời vợ:

“Bữa nay, tao nghe mầy nói một câu, nghe được. Xứ mình, đời đời, nhà nào mà không có bàn thờ. Đi ra đi vô thấy hoài riết rồi mình tưởng như không có. Tới lúc kẹt mới biết mình thiếu. Qua cái đám cưới này, tao tháo chữ Song Hỷ ra rồi đưa cái bàn lên cao một chút, để luôn như vậy.”

Ông muốn nói cho bà vợ nghe luôn. Thật ra, cái ý tưởng này cũng mới chớm có đây. Lâu nay, tâm tư giày vò, đầu óc bị dồn ép chớ bản thân ông, ông chưa thực hiện được bất cứ điều gì khiến mình tự làm phôi pha đi cái giày vò, dồn nén đó. Sẵn trớn, ông nói luôn:

“Cho dù con người ta theo Tây theo Mỹ đi nữa, ông bà mình đâu có bỏ quên được. Bởi vậy tao mới nhứt định buộc tụi bây phải nghiêm chỉnh với lễ nghĩa. Sống mà không biết có cái gì là ‘thiên niên thịnh,’ cái gì là ‘vạn đại vương’ thì ưa làm chuyện tầm bậy lắm. Ở bên này, tao coi cái mòi tụi nhỏ lần lần bắt chước người ta, quên hết ông bà, quên hết tổ tiên. Sự vong như sự tồn, chính là cái tình thiệt của con người ta. Mà hổng ai thèm biết, đâu có được.”

Bà vợ chắc không hiểu gì, chỉ hít hít mũi. Ông Thiên không nản, nói tiếp, mắt ngó về phía con Lương:

“Mầy chớ bộ! Ông nội mầy chết để lại cho tao tấm hoành bốn đời rồi. Coi, ở ngoài cửa bước vô nhà, trời có tối cách mấy cũng hổng ăn thua gì, tấm hoành nó sáng trưng, ngó một cái là giựt mình.”

Rồi ông chợt ngừng. Ông vừa biết mình đang có cái cảm giác thảng thốt như là giựt mình mà không phải. “Ẩm hà tư nguyên,” bức hoành mấy đời đã ngả mầu hồng nhạt như hiện ra trước mặt. Rồi bức hoành tụt xuống một đầu, tuột xuống hai đầu, hai thằng thanh niên mỗi đứa một đầu, bỏ hối hả vô đó mấy chục cuốn cổ thi, kinh sách, khệ nệ khiêng ra xe. Bức hoành bị cuốn lại thành một cục, nằm chung với cả trăm cuốn thuộc loại “văn hóa đồi trụy,” lâu rồi.

Con Lương đi trở về ghế, không phải để nghe cho rõ chuyện, mà là để thọc tay xuống cái bàn nhỏ, rút lên cuốn chương trình của đài truyền hình, lật coi.

Ông Thiên liếc qua bà vợ, cũng vừa lúc bà với tay mở cái đèn bàn đặt trên thùng loa cao gần một thước. Ánh sáng phựt một cái, tỏa ra khắp phòng. Ai cũng không để ý trong nhà nãy giờ tối hù.

“Mầy coi, ủi thêm cho tụi nhỏ mỗi đứa một bộ đồ nghe không Lương. Lỡ sáng tụi nó giỡn dơ hết, chiều không có mà bận đi nhà hàng. Tới đó, mình mẩy dơ hầy, người ta cười.

Con Lương gần như không để ý tới lời má nó nói nên không trả lời. Dĩ nhiên, nó quên luôn sự có mặt của ba nó ở đó, nó vừa lật tập chương trình, vừa hát nho nhỏ. Bà Thiên ngồi thu người ở một góc sa lông, ngó về bếp. Hai người, không còn ai muốn nghe chuyện nữa.

Ông Thiên cúi đầu ngẫm nghĩ: “Sao có nhiều chuyện chướng lỗ tai gai con mắt quá, mà đi tới đâu cũng gặp hết. Ở bên nhà thì đi vô đi ra gặp toàn cái thứ ngu dốt nó nói nhăng nói cuội rồi lo tính chuyện đè đầu đè cổ người ta. Qua tới đây, ai người ta cũng tiếng Tây tiếng Mỹ nói ra khói, tưởng đâu đem cái thứ cổ nho ra xài, tụi nó trọng vọng. Dè đâu…”

Ông chợt thấy nóng ran lồng ngực. “Không lẽ cái học của mình hết có chỗ xài rồi sao? Chớ thiếu gì thằng ở bên Tây tự khoe là giỏi tiếng Mỹ, rồi thiếu gì thằng ở đây lại khoe là giỏi tiếng Tây. Tụi nó mà con mắt người ta mà cũng được trọng vọng thua gì…”

Ông ngồi phịch xuống ghế, trợn mắt ngó bà vợ, rồi lại ngó con Lương. Ông muốn quay lại vấn đề cưới hỏi và cố tìm cho được một câu chữ nho thiệt là độc để đánh một cú chót với bà Thiên mà nhứt thời chưa tìm ra, nên hơi thở có vẻ dồn dập. Bà vợ nói nhỏ:

“Thôi ông đi nghỉ đi, chuyện gì rồi ngày mai hãy tính. Ngày mai là ngày vui của con Lương đó, ông liệu mà xử sự cho khéo. Tui cũng mệt lắm rồi.”

Ông Thiên không đáp lời, chỉ ngó trừng trừng vô mắt vợ. Con Lương lúc đó đang lơ đãng ngóng ra cửa sổ. Trời bên ngoài tối rồi.


Đất Lạ, Võ Hoàng & Tưởng Năng Tiến, Hương Quê phát hành 1984.

Khách Thập Phương

VÕ HOÀNG

Buổi sáng sớm, hai tín hữu một nam một nữ đến viếng chùa. Có lẽ họ dạo cảnh bên ngoài cũng khá lâu rồi mới vào trong, thầy Đàm nghe họ nói với nhau những lời phê bình, so sánh giữa hai đám bông hồng ở trước và sau chùa. Thấy thầy, chừng như biết chắc là người ở đây, họ cúi đầu chào ra vẻ kính trọng và xin phép được vào chánh điện lễ Phật.

Người đàn bà có vẻ sành sỏi việc cúng vái. Cứ xem dáng điệu chị nghiêng nghiêng châm đầu nhúm nhang thơm vào ngọn nến đang cháy, xong rụt lại đưa tay trái quạt nhẹ nhẹ, phân ra làm hai phần đưa cho người đàn ông một nửa, thầy Đàm biết không cần nói thêm một lời chỉ dẫn nào nữa.

Lễ xong, thầy mời họ ra phòng ngoài uống chén trà nóng. “Nhà chùa thì không có còn gì quý hơn là chén trà nóng đãi khách.” Họ im lặng đi theo sau.

Khỏi dãy hành lang sáng mờ mờ, thầy Đàm nói nhưng không quay lại:

“Hai vị là khách phương xa tới đây chắc? Tôi ở đây cả năm, đi tới đi lui cũng nhiều nhưng chưa gặp hai vị lần nào.”

“Dạ thưa thầy” – người đàn bà nhanh nhẹn – “vợ chồng tụi tui mới từ Wyoming qua chưa được một tuần lễ. Nghe nói ở đây có chùa, muốn tới liền mà hổm rày, bận công việc nhà cửa.”

Người đàn ông nói tiếp lời:

“Xe cộ cũng không có thành ra phải nấn ná hoài.”

“Dạ, bên này không có xe thiệt là kẹt!”

Người đàn bà kéo chiếc ghế trong góc ra cho chồng và một chiếc khác cho mình, chậm rãi ngồi xuống:

“Vợ chồng tụi tui qua Mỹ mới có nửa năm nay, ở trên kia, đi đâu thì có xe của hội nhà thờ chở, thiệt cũng ngại.”

Thầy Đàm chưa ngồi vội, nghiêng người sắp lại ba chén trà thành hình chữ phẩm, rót lưng lửng vào mỗi chén. Xong thầy đẩy chén bên trái về phía người đàn ông, thầy nghĩ:

“Mình xử đúng pháp mà không biết ông này có hiểu cho mình không.”

Thầy Đàm băn khoăn cũng đúng. Chén bên trái là chén thầy rót sau cùng. Theo phép lịch sự của ông bà để lại, rót rượu thì rót cho khách trước nhưng rót trà thì rót cho khách sau bởi vì hương trà chìm sâu xuống đáy bình, chả là người ta muốn thật tình đãi khách bằng những cái tốt đẹp nhất mình có được vậy mà.

Dường như người đàn ông không để ý, chỉ với tay kéo chén trà về trước mặt và xoay vòng vòng:

“Nghe nói ở đây có sư trụ trì, sao tôi không thấy sư vậy thầy?”

“Dạ, mời hai vị dùng trà.” Thầy Đàm ngồi hẳn xuống ghế. “Sư đi San Diego ba bốn ngày rồi, chắc phải đến cuối tuần mới về. Hiện thời thì tôi trụ trì.”

Người đàn ông gật gù, nhưng thầy Đàm vừa nói xong là biết ngay mình nói bậy nên liếc mắt nhìn ra cửa sổ. “Đâu phải ai cũng có quyền trụ trì! Mình nói vậy chẳng hóa ra mình lạm dụng hay sao. Tiếng trụ trì này phải được dùng cho người có phẩm hạnh, đạo đức. Trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng… An trụ để bảo trì pháp Phật. Người trụ trì được hiểu là vị chủ pháp, đàng này mình chỉ là kẻ ăn nhờ ở đậu…”

Thầy Đàm lựa lời nói trớ đi ngay:

“Tôi ở đây cũng được gần một năm. Ngày ngày làm đủ thứ công việc cho chùa và nghe sư dạy dỗ.”

“Thầy có đương đi làm không?” người đàn bà hỏi.

“Dạ không, tôi còn hưởng trợ cấp xã hội. Ban đêm thì học nghề mấy tiếng đồng hồ.”

Người đàn bà nhìn ra cửa sổ:

“Ở đây yên tịnh ghê há thầy! Ai chọn chỗ này thiệt cũng có con mắt.”

Thầy Đàm không đáp lời có lẽ vì cảm thấy khó quá, chỉ gật đầu. “Ở xứ này, chọn một chỗ để làm chùa có khác gì chọn một chỗ để ở. Làm thế nào tìm chỗ rộng rãi, rẻ tiền, có chỗ đậu xe kha khá cho bá tánh tới nhiều là tốt.” Người đàn ông tặc lưỡi:

“Nói cho ngay, mình qua tới đây mà còn cố gắng lập được chùa chiền là cả một vấn đề rồi phải không thầy? Ở bên tui ở lúc trước, không nghe ai nói tới chớ đừng kể là thấy. Thiệt là quí!”

“Tại hai vị không biết, chớ hồi trước chùa chỉ là một cái nhà ở và dành ra một chỗ để thờ Phật. Sau thấy có tín hữu tới làm lễ hơi nhiều nên chủ nhà dời qua chỗ khác ở và mời sư về đây trụ trì. Mỗi người một ít, vận động Phật tử đóng góp trả tiền thuê. Hồi đó, còn xập xệ lắm.”

“Phải từ từ chớ thầy. Còn lâu lắm mới khá hơn được. Thầy thấy không?”

Thầy Đàm cảm thấy người đàn ông nãy giờ chỉ nói toàn theo kiểu vuốt đuôi, thầy quay qua người đàn bà:

“Ở đây cũng đang có phong trào góp của Phật tử để còn mua hẳn một chỗ, sửa sang lại cho đúng cảnh chùa. Hai vị chút nữa ra coi mấy tờ thông bạch để biết rõ dự án lập chùa như thế nào.”

Thầy Đàm chợt xô ghế đứng dậy đi về phía kệ sách, thầy lấy một cuốn giấy được dán băng keo vòng lại. Đi trở lại bàn, vừa gỡ vừa nói:

“Hai vị coi, đồ án của chùa đã được chuẩn bị xong xuôi cả năm nay, mà thật thì cũng còn chờ thêm thời gian để Phật tử đóng góp.”

Thầy Đàm trao hẳn tấm đồ án cho người đàn bà. Người đàn ông kéo ghế tới gần vợ, hai cái đầu châu vào. Một chốc tiếng người đàn ông chầm chậm.

“Chậc! Kể thì cũng công phu lắm. Mà sao thầy không nói họ làm thành nhiều bản thế này phổ biến rộng ra cho Phật tử nức lòng đóng góp nhiều vô.”

“Có, có chứ,” thầy Đàm sốt sắng. “Nhà chùa có thâu hình này để vào các bích chương phát cho Phật tử nhiều rồi, lâu rồi!”

Hai vợ chồng lại ngắm nghía tấm đồ án. Họ thầm thì với nhau những câu phê bình, thầy Đàm không nghe được hết. Thầy dựa lưng vào ghế nhìn lên trần. Hồi lâu, người đàn ông nói lớn:

“Thế nào thì mình cũng kiếm được một cây bồ đề trồng sau chùa thầy há! Được vậy mới quí.”

Thầy Đàm chưa nghĩ được phải nên nói gì thì người đàn bà nguýt chồng:

“Anh này, chưa cất được chùa mà lo tới chuyện trồng cây này cây nọ.”

“À, à, chùa là phải có cây bồ đề chứ,” thầy Đàm đỡ lời. “Nhưng đó là việc sau này mới làm. Hai vị cũng thấy đó, mình có đất tốt, lo gì lúa trổ muộn, người xưa có nói như vậy mà.”

Nói thì nói, nhưng thầy Đàm cảm thấy mình hết hứng khi phải ngồi nói chuyện với hai người này, nhất là người đàn ông. Thầy nghĩ: “Cái điệu này, mình giữ ý giữ tứ mất công quá. Xem chừng người ta tới chùa cho vui vậy thôi.” Thầy liếc về phía người đàn bà đang chăm chú nhìn vào tấm đồ án, bỗng chợt dịu lòng lại. “Sư dạy, người có tâm với đạo phải giữ ý niệm thật chính. Thời buổi này, ai tới chùa thì truớc hết đã có ý thành, mình giữ tâm chính mà tiếp. Chưa làm được việc để tín hữu quí trọng cái huyền diệu của Phật pháp cũng nên cố làm được việc để tín hữu thấy được sự rực rỡ trang nghiêm của chốn thiền tự.” Thầy nói:

“Tôi nghe sư dạy, đạo với đời cách xa nhau như trời với đất nhưng thật ra là một. Phật tử mình qua tới đây rồi cũng còn cố làm việc đạo. Cất chùa, thật ra là làm việc đạo, mà để cho đời đó. Sư dạy, miễn làm sao đừng để việc đạo và việc đời giao tiếp nhau bằng cái lợi thì tâm được an mà Phật pháp hưng thịnh luôn.”

Thầy Đàm biết mình đang nói rất thật lòng. Mà thầy chỉ mong hai người này cũng hiểu là mình đang nói thật lòng. Người đàn ông vừa nghe chuyện trong khi tay thì lật từng trang tờ báo của hội Phật tử, rõ ràng ông ta nghe một nửa mà đọc báo một nửa. Thầy quay qua người đàn bà:

“Hai vị thấy đó, chỉ việc bảo vệ Phật pháp ở xứ này đã khó rồi, nói tới chuyện phát triển thiệt tình đâu phải dễ gì.”

“Cái khó là làm sao nói cho họ hiểu và tự chọn cách tiếp tay với bao nhiêu người mà lòng được vui,” thầy Đàm nghĩ, rồi cảm thấy mình mất tự nhiên, không phải chỉ có lần này mà luôn luôn như vậy mỗi khi thầy lựa lời nói tới việc kêu gọi Phật tử đóng góp tiền bạc xây cất chùa. Thầy biết, qua tới đây rồi, đi trước hay đi sau gì cũng vậy, nhu cầu của cuộc sống nó đi theo hoàn cảnh. Hồi đó, ở căn chòi nhỏ cập một bờ kinh mới đào, thầy biết rằng nửa lít gạo Nàng Thơm đối với mình thật sự là một ước mơ, một ước mơ khó có được. Bây giờ, ước mơ của thầy đổi khác đi nhiều, một chiếc xe hơi “mơi mới một chút” chẳng hạn, mà thật ra, ước mơ này có khó gì? Thầy mím môi nói trong bụng:

“Mình mà còn như vậy, huống chi người ta.”

Người đàn ông bẻ gập tờ báo lại trình ra trước mặt một trang quảng cáo:

“Cái này có thiệt không thầy? Mua xe mới mà khỏi cần phải đặt tiền cọc gì hết, tui thấy khó tin lắm.”

Thầy Đàm giật mình, hơi luống cuống. Tự dưng “thằng cha này” nói ngay tới chuyện mình đang nghĩ.

“Dạ, có đó ông. Ở đây người ta dễ dãi đủ mọi thứ hết.”

Người đàn bà nhoài người chụp tờ báo, nghiêng đầu đọc trang quảng cáo. Thầy Đàm đứng dậy rót thêm hai chén trà cho khách, tặc lưỡi:

“Bên này, cuộc sống dễ thở lắm, muốn gì cũng có, không phải như bên mình.”

Thầy không dám nói hết những gì mình đang nghĩ. “Cái có, nhiều đến nỗi thừa đi và người ta phải nai lưng ra trả nợ cho cái chỗ thừa thải đó.” Thầy vốc ngược chén trà uống cạn:

“Chút nữa hai vị lấy ít tờ bích chương về, có xóm giềng gần gần thì cho họ coi với.”

Thầy nói như vậy vì biết rằng người đàn ông đã có ý muốn về từ nãy giờ. Người đàn bà nhỏ giọng:

“Dạ, thưa thầy. Chắc rồi vợ chồng tui cũng phải đóng góp chút đỉnh gọi là công quả. Thầy cho tui lấy ít chục tờ này.”

“Chi cho nhiều,” người đàn ông tiếp lời. “Mình còn trở lại đây nữa mà. Lấy vài tờ thôi.”

Thầy Đàm tiễn họ ra tới ngõ thì đi chậm lại. Buổi sáng vẫn còn, thầy thấy được những cánh hồng chưa khô hẳn. Người đàn bà cúi người nhặt một cành táo khô nằm giữa đường quẳng vào gốc rào, quay lại:

“Ngày mốt, vợ chồng tui đi làm giấy tờ trợ cấp xã hội, cũng gần đây, thế nào tụi tui cũng ghé thăm thầy.”

“Dạ cám ơn hai vị. Nếu không tiện thì tuần sau… sư về, tuần sau sư về.”

Người đàn ông ra tới lề đường, chừng như nhớ ra là chưa chào lời từ giã thì quay trở vào, gục gặc đầu:

“Thôi, chào thầy nhe. Rảnh rảnh tui ghé thăm thầy. Chắc cũng nhờ thầy chỉ dẫn nhiều thứ nữa. Ở xứ này, thiệt mình như dốt!”

Thầy Đàm cười tươi, chống tay vào cánh cửa rào:

“Ông cứ việc tới, tôi biết gì tôi nói ông nghe. Không sao mà, tui qua trước.”

Người đàn ông vịn vai vợ đi xa rồi, thầy Đàm cố nói lớn theo:

“Mình là tỵ nạn với nhau mà.”


Đất Lạ, Võ Hoàng & Tưởng Năng Tiến, Hương Quê phát hành 1984.

Măng Đầu Mùa (Thay Lời Tựa)

Cho ra đời một cuốn sách viết bằng tiếng Việt ở một nơi không phải là Việt Nam, ở một nơi mà Việt ngữ hoàn toàn không có thế giá và đang dần dần bị quên lãng, chúng tôi thấy ngay việc làm mang nhiều buồn thảm và có vẻ hơi vô vọng.

Nhưng làm sao ĐỪNG được?

Có những điều cần phải được nói ra một cách chân thành, có những điều cần phải nên nói ra mặc dầu không mấy ai thích nghe và có những điều cần phải tiếp tục nói mãi, mặc dầu trong chúng ta, có người đang cố tình không nghĩ đến nữa.

Bổn phận. Bổn phận của những thằng người tự khám phá ra được mình là một chứng nhân ít nhất cũng ở một đoạn đời. Thêm vào đó, ở bên kia, loài qủy đỏ dẫm nát những gì đang có, rồi sẽ dẫm nát hết những gì đã có mà ở bên này, mình gọi là Văn Hóa Dân Tộc.

Thêm một tác phẩm Việt ngữ xuất bản ở xứ người, nghĩ cho cùng, còn hơn là không có gì cả.

Măng Đầu Mùa rõ ràng là một cố gắng.

Măng Đầu Mùa rõ ràng là một đóng góp.

Măng Đầu Mùa hình thành bằng sự khuyến khích và giúp đỡ của thân hữu và bạn bè. Họ là những cố gắng, họ là những đóng góp mà Măng Đầu Mùa nương theo đó, cố gắng và đóng góp. Chúng tôi tri ân lắm vậy.

VÕ HOÀNG & TƯỞNG NĂNG TIẾN


Măng Đầu Mùa, Võ Hoàng & Tưởng Năng Tiến, Hương Quê phát hành 1982.

Trong Lòng Cách Mạng (Tựa)

Biến cố 1975 đã khiến văn chương phải nhìn lại mình, phải lên tiếng nói. Không phải vì những bản án suồng sã của kẻ thù buộc văn chương phải nhìn lại mình mà vì trách nhiệm cần cảnh tỉnh. Không phải vì những đàn áp nghiệt ngã của kẻ thù buộc văn chương phải lên tiếng nói mà vì sự thật cần thốt nên lời.

Có người cho rằng văn chương hiện nay của chúng ta đang là văn chương thời thế. Người ta mặc nhiên thừa nhận rằng đã có lúc văn chương không-là-thời thế. Cái thứ văn chương đứng ngoài (đứng trên?) thời thế đã từng xoay lưng, làm lạ với trách nhiệm của văn chương phải chăng là văn chương đích thực, hay chỉ là sự vong thân của văn chương?

Ở giữa vòng vây của kẻ thù trong khi văn chương nhận lãnh trách nhiệm và lên tiếng cho sự thật thì ở chốn tự do người ta lại than thở cho tình trạng mất tự do của văn chương (?), người ta tìm cách phóng bút qui ẩn, hoặc người ta cố gắng dựng lại “cõi thiên đường đã mất” với ít nhiều miễn cưỡng.

Cũng may, đó chỉ là tâm bệnh của một số người không còn đất sống. Cũng may ở xứ người vẫn còn nhiều kẻ có lòng với văn chương, còn có Võ Hoàng. Tác phẩm của họ – ở đây là tập hợp tám truyện ngắn – không cần phải được (cái thói) xưng tụng (lẫn nhau), tô điểm bằng những mầu sắc lố lăng, giả tạo, vẫn đầy đủ sức sống mãnh liệt của một dân tộc. Tám mẩu chuyện dẫn người đọc vào một thế giới rất Việt Nam, cùng quẫn sau 1975 trong vòng vây bạo lực từ cuộc đổi đời bi thảm.

Trong Lòng Cách Mạng đã xác định một điều: Ở đâu đó trong từng nhân vật, cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục bằng cách thế riêng của mỗi người. Đó có phải là chủ đích của tác giả và là điều đáng kể nhất bây giờ?

Muà Hạ 1983
Cơ Sở Xuất Bản NHÂN VĂN


Trong Lòng Cách Mạng, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (Tựa)

Đi đến chân trời góc bể nào cũng đi. Phải đi để tìm một cuộc đổi đời. Đó là cái ước mơ bi đát lớn lao của hơn năm mươi triệu người dân Việt Nam đang sống khắc khoải dưới một định chế xã hội khắc nghiệt, phi nhân có tên Xã Hội Cộng Sản. Người ta chấp nhận phiêu lưu, hiểm nguy chỉ để mong sao tìm được một sự thay đổi, bằng mọi giá. Kể cả nhiều thứ “giá” trời biển mà chính những kẻ tìm đường vượt thoát đều không thể mường tượng được là nó mắc cỡ nào?

Hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, đều hớ trong việc mang đời mình để mặc cả với cái giá tự do. Một nửa – hay hơn nữa – đã vùi thây dưới lòng biển cả, hoặc khô xác trên những chiếc thuyền con lênh đênh, hay ở những góc rừng biên giới. Số còn lại được đưa đến những nơi mà “hình như” không phải là nơi họ mong đợi. Họ may mắn thoát khỏi địa ngục Cộng Sản, thoát khỏi những hiểm nguy ngặt nghèo trên cuộc hành trình đầy bất trắc và cuối cùng thì họ bắt gặp chính mình đang đứng… ngoài cửa thiên đường!

Người Việt Nam đã và đang thực hiện một chuyến “exodus” hãi hùng và bi đát nhất trong lịch sử của nhân loại. Dẫu vậy, cái thảm kịch này vẫn chưa được nhân loại quan tâm và đánh giá đúng mức. Nó vẫn còn đang được nhìn với sự thờ ơ, lạnh nhạt; với sự dè bỉu đố kỵ và tệ hơn hết là với sự… hiểu lầm, ngộ nhận.

Tại sao? Có nhiều cái “tại” đau đớn lắm! Một trong những cái “tại” đó, có thể nói được ở đây là bởi chính những kẻ trong cuộc, những nạn nhân đều không nói lên được cái thảm kịch của dân tộc mình, một vết nhơ trong lương tâm của loài người.

Võ Hoàng, một trong những kẻ hiếm hoi may mắn sống sót, vừa làm xong điều đó. Ông làm được. Ông thực hiện công việc này với sự nghiêm chỉnh, chí tình và bằng tất cả những rung động xót xa qua cuốn truyện dài mà quý vị đang cầm trên tay.

Võ Hoàng viết gì trong tác phẩm “Góc Bể Bên Trời”? Xin thưa, không có gì lạ. Chỉ là một cuộc vượt biển “phụ,” một đoạn đường đi “thêm” từ vịnh Thái Lan đến… Úc Châu, trên một chiếc thuyền nhỏ, mong manh, thiếu thốn tất cả những phương tiện, những điều kiện cần thiết tối thiểu cho một hải trình dài dặc và có trăm ngàn thứ gian nguy…

Có khác chăng là Võ Hoàng đã ghi nhận lại chuyến đi của mình (chúng ta thì… không?) và ghi nhận bằng nhận xét của một thủy thủ nhà nghề, bằng một ngòi viết bình tĩnh, vững chãi và trên hết là bằng tâm hồn của một nghệ sĩ, một con người với những cảm nhận đau đớn, đau đớn đến thảng thốt về thân phận lưu đày của mình.

Có những hạn từ, những ý niệm hay đúng hơn là những tâm cảm mà người ta bắt gặp hoài trong suốt tác phẩm của Võ Hoàng. Một thứ tình hoài hương thiết tha, thấm thía khi con người rứt ruột ra đi nghĩ về “xứ mình”; cảm giác cô đơn lạc lõng khi lênh đênh trôi giạt giữa trời biển “xứ người,” và chua xót đau đớn hơn cả là cái tâm cảm “tủi thân”!

Đi với dằn vặt, với cắn rứt, với gian nguy mà nơi đến thì không có gì là hứa hẹn! Thoát khỏi địa ngục để chỉ đến được một “tầng địa ngục chuyển tiếp.” Nơi đó cuộc sống tù túng, khắt khe cùng với sự bạc đãi đều vẫn vượt quá sức chịu đựng và chờ đợi của con người. Lại đi. Đi nữa, với hy vọng đến được một góc bể chân trời tươi sáng hơn.

Trong cái thế giới mà theo Võ Hoàng thì “có quá nhiều người vô tình” này thì dù ở chân trời góc bể nào người tỵ nạn vẫn đều có chung chừng đó những thảm kịch. Lòng người vốn khắt khe, cuộc đời vốn nghiệt ngã nên bờ bến nào cũng khép kín. Ở “nơi cuối cùng có thể đến được” thì điều chờ đợi Võ Hoàng và những người đồng hành vẫn chỉ là… cánh cửa của một nhà giam.

Đó có phải là cánh cửa mở ra cho cuộc đời mới ở nơi góc bể chân trời? Đó có phải là một thứ nhà giam mới – ít chật chội, tù túng hơn – mà tất cả những kẻ tha phương lưu lạc như chúng ta có bổn phận phải đồng tâm hiệp sức để tìm cách vượt thoát. Thoát khỏi nơi đó để giải phóng chính mình hết kiếp lưu đày và giải phóng bao nhiêu triệu đồng bào khác nữa đang rẫy rụa, khắc khoải nơi cái phần quê hương tù ngục?

Câu chuyện của Võ Hoàng không đề cập đến điều đó. Không cần thiết phải làm như vậy. Kiếp sống tha hương mà chúng ta đang kéo lết từng ngày, với những thao thức, ray rứt hàng đêm đã minh thị điều đó?

Không ai – kể cả Võ Hoàng – mong rằng “Góc Bể Bên Trời” là tác phẩm duy nhất hoặc hay nhất viết về chuyến đi bi thảm của những người Việt Nam tỵ nạn. Ai ai – kể cả Võ Hoàng – cũng đều mong rằng có nhiều tác phẩm khác nữa, hay hơn, về cuộc đời tỵ nạn sẽ được viết ra. “Góc Bể Bên Trời” – có thể – chưa phải là một tác phẩm lớn nhưng cho đến nay – nói một cách công tâm – chưa ai trong chúng ta đã viết được một tác phẩm lớn hơn như vậy về vấn đề này. Vấn đề thiết thân mà chúng ta vẫn cố ý quên!

Mùa Hạ 1983
Cơ Sở Xuất Bản NHÂN VĂN


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (1)

VÕ HOÀNG

Chiều xuống thật chậm như muốn kéo dài cuộc sống buồn tủi, một thứ buồn tủi đầy ngập khoảng đất lớn chỉ bằng cái sân bóng tròn chứa hơn hai ngàn người. Songkhla có những buổi sáng hối hả, những buổi trưa hừng hực nóng và những buổi tối thổn thức cho tất cả những người ở đó.

Hôm nào không có thêm người nhập trại là y như ai cũng có vẻ uể oải, chán chường. Người ta xoay qua để ý và gấu ó nhau từng chút chung quanh cuộc sống. Đằng kia cãi cọ nhau vì mấy “đồ mất dạy” mới chạng vạng tối mà đã xúm nhau leo lên mái thiếc giành giựt chia chác chỗ nằm, rồi thì “bọn khốn nạn” bên dưới tạt nước ướt cả chân. Gần dưới bến, mấy người lại chửi bới nhau về việc trả góp vàng bạc không sòng phẳng mà câu chuyện đã được gác qua nhiều ngày, rảnh rang lại đem ra như một thứ đề tài tiêu khiển. Đằng sau văn phòng trại cũng có chuyện tranh nhau sắp thùng lấy nước và gọi nhau bằng những “con đĩ.”

Năm tháng trời, trong cái cabine nhỏ tí xíu xiêu vẹo gần như nằm giữa lòng khoảng đất trại, Thanh nghe đã đủ hết những danh từ khó ưa này và thường thường mọi chuyện được giải quyết bằng một chuyện khác mới xảy đến, mục sư đem thư vô chẳng hạn, ghe Việt Nam tới hay cảnh sát Thái xách roi đi ngang qua đó.

Người ta hay vừa thấp thỏm chờ mong vừa nguyền rủa một ngày sắp tới. Không có gì được xem như là một hứa hẹn. Thanh không ngờ cuộc đời mình rồi cũng có lúc ngồi khoanh tay mỗi ngày nhìn lá cờ Thái Lan hai lần lên xuống không một chút cảm giác. Làm sao diễn tả cho đúng thực thể của một exodus có mình trong đó? Chung quanh anh bây giờ thật sự là những cuộc sống thuần tính chất quê hương, một thứ tính chất được lọc bằng nhiều năm tháng chiến tranh tàn bạo nhất thế kỷ. Đôi lúc anh chợt cười mỉm một mình khi nghĩ rằng hồi nào xa khỏi nơi đây, chắc lại tiếc nhớ. Đối với anh, ngày tháng ở Songkhla phải là những ngày tháng được đặt vào chỗ trang trọng nhất trong cuộc đời ly hương. Một chút gì không ổn mà nhẹ nhàng chen lẫn vào sự khắt khe trong con người anh từ cái chuyện đám thanh niên lều kế bên vừa chưởi thề, vừa học Anh văn, rồi một bà vừa phun nước bọt vừa càu nhàu mấy đứa con sao không chịu giữ gìn sạch sẽ, cho đến ông cụ già vận xà rông ngồi xổm nguyền rủa mấy người con gái “Việt Nam mà bầy đặt nói tiếng Thái với nhau.”

“Chị Phượng, cho em mượn cuốn Hương Rừng Cà Mau đọc đỡ buồn. Hôm qua em thấy nhỏ Thu cầm. Hồi ở nhà em có đọc một lần…”

“Phải giữ gìn cho kỹ, nghe chưa! Hay là nằm đây đọc cho xong, lôi đi bỏ mất thì tiếc lắm đó.”

“Em giữ cho mà, ở đây ồn ào quá.”

“Ở đâu cũng ồn. Hôm nay có thơ không?”

“Có, của thằng bạn ở Tây Đức. Chị biết không, em thích nhất là truyện ngắn gì mà có anh nhà báo đi thâu tiền báo của độc giả dài hạn, rồi không thâu được lại còn bị dằng dai triết lý, chuyện đâu hồi học lớp ba trường làng cũng đem ra bàn luận. Vậy mà Sơn Nam viết hay ghê.”

“Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư!”

“Đúng rồi. Còn một truyện gì nữa, người lái đò già cuối cùng thì nghĩ rằng ‘trên đời sống, cần nhất là tấm lòng…’”

“Chị cũng thích đoạn đó, nhưng mà cũng quên tựa. Văn Sơn Nam hay thật hén!”

“Dạ.”

Mẫu đối thoại lọt vào giữa trăm ngàn âm thanh loạn xạ vậy mà Thanh nghe không sót một tiếng. Người con gái đó, cùng gia đình thoát đi từ cửa sông Ông Đốc hồi tháng chạp. Nghe kể thì cô ta bỏ quên nhiều thứ đồ đạc để chỉ nhớ có cái thùng giấy trong đó toàn sách và băng nhạc. Người con gái buổi chiều thường hay ngồi trầm ngâm, có hỏi nghĩ gì thì trả lời “đang nghĩ đến những buổi chiều ở Chùa Lá,” và hỏi lại, “anh có biết Chùa Lá không?” hoặc, “đang nghĩ đến những buổi chiều sau Tết này năm nào, một hôm có người bạn ghé thăm vào buổi chiều hôm trước thì chiều hôm sau nghe tin anh chết ở chiến trường Lộc Ninh…”

Cô hay nói đến những buổi chiều, những buổi chiều xa lắc, và câu chuyện được cô nói như đọc một đoạn văn đã được trau chuốt từng chữ. Lần đầu tiên, Thanh để ý tới người con gái này khi cô hồn nhiên vui đùa với những người ngư dân đảo Phú Quốc lều bên cạnh. Chưa đầy một tháng tiếp xúc nhau, cô có vẻ như là một dân đảo thứ thiệt. Một trang hồi ký dở dang có lần Phượng để quên trong quyển sách của Remarque và cho Thanh mượn:

Họ là con cháu những người đến lập nghiệp từ Thanh Hóa, Nghệ An vào thời chúa Nguyễn Phúc Ánh hãy còn bôn ba và liên tiếp hơn một thế kỷ sau đó. Sự chất phác của họ đã làm con người tôi thật sự thay đổi ít nhất cũng ở khía cạnh cư xử với nhau trong một loại người mà trước kia tôi ít khi lưu tâm tới. Có điều tôi chưa hiểu nổi và vẫn ao ước làm sao để sống lại ít nhất cũng vài năm ở ngay trên đảo bằng chính cái không khí bình thản đó – tôi nghĩ vậy – cái không khí đã tạo cho con người ta lúc nào cũng có vẻ an phận.

Họ dễ thương trong tất cả mọi sinh hoạt, nhất là lúc họ đùa giỡn với nhau…

Thanh mỉm cười. Giá mà Phượng biết rõ hơn gần hết những người dân đảo qua đến trại này, đa số là thanh niên, họ đến bằng những chiếc thuyền vừa cướp được. Cướp của hợp tác xã ngư nghiệp, cướp của công an biên phòng, cướp của những người “an phận” chưa kịp tháo chạy, cướp trên biển, cướp tại bến, cướp ngay trạm kiểm soát…

Hoàn cảnh xã hội đã biến những “con người dễ thương trong tất cả mọi sinh hoạt” này thành những kẻ liều lĩnh như thế đó. Và Phượng có biết được đâu, đêm nay họ lại sẽ cướp thuyền của cảnh sát Thái Lan để chấp nhận trở lại những ngày kinh hoàng trên biển chỉ vì mấy hôm nay, tình trạng căng thẳng do những xung đột giữa dân trong trại và cảnh sát mà chính họ là những thủ phạm sắp bị phát giác.

Tháng ngày ở đây đã bóp chặt sự thông cảm của con người lại. Nó làm lớn dậy những bực dọc nhỏ nhất mà Thanh nghĩ, nếu ở một hoàn cảnh khác, người ta sẽ bỏ qua một cách dễ dàng. Rồi thì bao nhiêu thứ gom vào một, thành ra bùng vỡ một cách hơi vô lý. Thanh cảm thông được với bạn bè vì những rắc rối này, nhưng Phượng thì làm sao hiểu được?

Trời không một chút gió, thành ra tiếng ồn ào như có vẻ lớn hơn mọi ngày. Thanh nhìn ra cổng rào, cố nghĩ tới một tâm trạng tương tự như vầy đã có lần nào đến trong đời mình chưa mà mãi không ra.

Hồng về đến trước lều và thuận tay dọn dẹp vội vàng những thứ đồ đạc bừa bãi. Nó chui nhanh vào lều, thỏ thẻ:

“Anh Thanh à, anh Hai chỉ tìm được một cái địa bàn nhỏ loại của bộ binh thôi, anh biểu tạm thời anh xài, ra khơi gặp tàu buôn thể nào cũng xin được hải bàn.”

“Gặp anh Triều đâu không? Anh đang tìm… Còn thằng Phong, thằng Chí nữa.”

“Đủ hết đằng lều anh Hào. Hồi nãy cảnh sát đánh người ở dưới bến, mấy người Phan Thiết, tụi nó lên cậy ván ghe làm củi. Chưa có gì đả động đến ghe mình hết.”

Thanh xỏ dép đi nhanh về phía lều thằng Hào.

Ghe mình! Thằng Hồng dùng tiếng “ghe mình” làm Thanh lại chợt mỉm cười. Đến trại được hai ngày, mọi chiếc ghe đều trở thành một thứ tặng vật của cảnh sát Thái. Người ta không có một dịp để gật đầu, không có một dịp để ký nhận bất cứ giấy tờ gì về việc “mua bán” chiếc ghe của họ. Hợp thức hóa chỉ là việc thò mắt nhìn mà không có ý kiến gì trong lúc cảnh sát xuống lục soát và mang lên những thứ có thể bán lẻ được, hải bàn, đèn pha chẳng hạn.

Ghe nào còn có vẻ tốt một chút thì trong vòng một tuần “bà già trầu” đến đem đi mất dạng. Có người nói lại bà nầy là một người Việt Nam hoặc chồng là người Việt Nam. Bà là một thứ “thầu,” thầu tất cả các ghe thuyền của người tỵ nạn. Năm ngoái, người đến còn bán được ghe thuyền của mình qua trung gian cảnh sát, nghĩa là họ nhận được một phần số tiền, sống lây lất. Lúc sau nầy thì cảnh sát bán và không ai biết gì cả ngoài việc “bà già trầu” dắt người tới mang ghe đi, chiếc nào không nổ máy nổi thì kéo.

“Ghe mình” mang số VNKG 0042 ADC và mới đến bốn ngày. Nếu Thanh đoán không lầm thì chỉ sáng ngày mai, “bà già trầu” lại đến. Chẳng bao giờ bà cần thấy mặt mũi món hàng tốt xấu ra sao, chỉ có mua và trả tiền, rồi kéo đi. Mỗi lần như vậy, dân trại nhốn nháo chen chúc nhau và hình như ai cũng cố nhìn cho rõ lần cuối cùng chiếc thuyền đã một lần đưa những người cùng khổ đến bến bờ nầy.

Thanh kiểm điểm trong đầu những cần thiết cho chuyến đi kỳ cục sắp tới. Bạn bè gọi anh là thuyền trưởng ngay từ lúc chiếc VNKG 0042 còn quay mòng mòng chưa cập bến. Trên bờ, anh nhìn thấy nó tiềm ẩn một sự chịu đựng ghê gớm và có một chút gì kiêu ngạo, để bất giác anh gật đầu.

Bây giờ thì tất cả gần như ổn thỏa, mặc dầu chỉ trong điều kiện tối thiểu. Dầu được hơn một trăm lít, một phần năm con đường đến hải phận Mã Lai. Thực phẩm chưa lượng được nhưng chắc chắn mọi người sẽ cùng lưu ý đến. Nước đá còn những hai hầm. Điều mà Thanh nghĩ đến nhiều nhất là làm thế nào để có một hải đồ lớn và chi tiết hơn, anh cảm thấy mình chỉ có quyền an tâm trong khoảng từ cửa bến Songkhla cho đến ngọn hải đăng Singapore, đoạn đường bốn ngày biển, bốn phân tây bản đồ. Ngoại trừ máy hư hoặc cướp có súng, đoạn đường nầy không có gì là nguy hiểm.

Chiều chậm nhưng lúc tối, tối thật nhanh. Thanh chỉ muốn cuộc sống chán ngấy còn sót lại của một ngày chết tắt ngay từ lúc nầy, “để người ta bắt đầu…” Mười giờ đêm rồi!

Thanh sắp đặt công việc trong điều kiện và hoàn cảnh mà bọn anh đang có. Không ai có ý kiến gì thêm ngoài câu hỏi của thằng Chí:

“Mầy có chắc là máy nổ được không?”

“Đó là vấn đề.” Anh quay qua Trường: “Mầy có chắc không Trường? Công việc tới đâu rồi?”

Thằng Trường tuột xuống võng, ngồi sát vào cả bọn, nói nhỏ:

“Mấy cái co dầu, cái nào cũng còn nguyên. Nếu cái bình còn đủ hơi, thì coi như ăn chắc.”

“Tao thử rồi,” thằng Phong xen vô. “Chiều hôm qua, tao lận mỏ lết chui xuống hầm vặn nhẹ đầu ống hơi, nó xì một cái ghê lắm mà.”

“Vậy là yên chí. Hồi chiều thằng Văn tắm sông, lặn gỡ xong mấy nuồi lưới quấn chưn vịt ra rồi.”

Thanh tiếp lời sau khi không thấy thằng nào nói gì thêm nữa:

“Hai tiếng đồng hồ để tụi mình lắp ống dầu vô và đem dầu xuống. Mình bắt đầu bất cứ giờ nào tụi cảnh sát đi ngủ. Cần nhất là vọng gác đàng sau. Thôi, ai về chỗ nấy, lạng quạng sanh chuyện lu bu, tụi nó thức càng khuya, mình càng lo thêm. Về nghe. Thằng Chí, thằng Văn lo việc cái vọng gác, nhớ không?”

Đi ngang văn phòng trại, Thanh nghe loáng thoáng tiếng một người đàn bà khóc rưng rức. Anh đi chậm lại. Tiếng anh Mai, trại trưởng:

“Chuyện nợ nần ở đâu hồi ở bển sao mà còn mang qua tới bên này đòi rồi sanh chuyện. Tui hết biết.”

Thanh phì cười một mình, anh quẹt tay vào các vách lều dọc theo đường về. Vài người vạch cửa ló ra nhìn.

Phượng đã rõ mọi chuyện và cô ngồi đợi ở lều.

“Phượng nghe Hòa nó nói, có phải vậy không? Anh định đi Úc?”

“…”

“Sao không rán chờ thêm vài tuần nữa. Anh không nghe Cao Ủy nói sẽ có danh sách ba trăm người đi Bangkok trong tuần tới sao?”

“…”

“Phượng nghe mấy người Tàu Chợ Lớn nói nhiều đến chiếc ghe nầy và họ cũng có ý định mua chuộc cảnh sát Thái…”

“Để chết à? Nó là một chiếc ghe mục, máy hư.”

“Vậy sao anh chọn nó?”

Thanh không trả lời. Người Tàu cũng có ý định nầy, bọn anh đã biết nhưng dù sao, đó cũng chỉ là ý định. Họ sẽ không đủ can đảm để quyết định và nhất là phải quyết định sau khi mọi thủ tục “đi tắt” với cảnh sát Thái hoàn tất. Còn lâu lắm! Đa số họ vì đủ thứ lý do khiến phái đoàn Mỹ không chấp nhận, rồi phái đoàn Úc từ chối, họ ở đây hơn một năm, tiều tụy và tuyệt vọng.

“Đã có nhiều người biết,” Thanh nhỏ giọng, “và một số sẽ đi theo đêm nay. Anh nghĩ nhiều người còn ngần ngại lắm, nhất là họ sợ cảnh sát Thái đánh đập khi đổ bể chuyện.”

“Vậy là anh quyết định thật!”

Rồi Phượng nín nghẹn. Một thứ tình cảm thật khó diễn tả trong đôi mắt khi cô nhìn Thanh. Không biết cô đang nghĩ gì.

“Cả bên nhà anh Hai đi, trừ anh và hai thằng con. Rồi tụi Triều, Phong, Chí và một số người Nha Trang, ai cũng rành về đi biển. Phượng đừng lo! Phượng về ngủ đi, anh gởi lời thăm hai bác, mấy chị em…”

Thằng Văn chui vào lều, nó móc túi lôi ra một xấp đô la:

“Anh Hai cho tụi mình, nói là để đem theo mua dầu, mua thuốc dọc đường. Ảnh dặn anh, chút nữa qua ảnh, nói gì đó. Anh Triều lấy cái địa bàn rồi.”

Phượng về, không thèm nhìn lại. Thanh quay qua Văn:

“Xuống thằng Hòa bảo tụi nó chuẩn bị cho xong hết đi.”

“Ờ! Tụi cảnh sát còn thức. Thằng ‘mặt ngựa’ bữa nay ‘xỉn,’ đi lòng vòng gặp ai cũng muốn đánh.”

Gần mười hai giờ, Thanh lẹp xẹp chui vào lều anh Hai. Anh vẫn còn thức. Làm sao mà ngủ được khi đêm nay tụi đàn em quyết định một cách liều lĩnh quá, anh không thể nào ngăn cản được nữa. Đối với anh, chuyến đi nầy vô thưởng vô phạt, có điều xa bọn đàn em nhiều ngày tháng chia sẻ nhau những giờ phút giày vò tủi nhục kéo dài qua các trại giam miền Nam Thái, anh thấy thương và lo, vậy thôi!

“Kêu em gì đó, anh Hai?”

“Ờ, ờ… Anh muốn biết đã sắp đặt những thứ gì rồi. Ngồi đi.”

Anh Hai với tay lấy gói thuốc và tụt xuống võng, ngồi bẹp trên sàn nhà:

“Em thấy cái địa bàn chưa?”

“Chưa, anh. Nhưng em biết loại đó rồi. Đây tới Singapore thì không sợ, khí hậu và gió mùa giống nhau, mình biết được.”

“Bao nhiêu dầu?”

“Khoảng một trăm lít thôi anh. Chỉ đủ chạy mấy tiếng đồng hồ, tụi em vẫn chưa đem xuống.” Thanh ngừng một chút, nhỏ giọng: “Anh Hai, anh có đi không?”

“Không! Tụi bây, thiệt anh không biết nghĩ sao, liều quá… Nhưng mà nếu không có hai thằng nhỏ, chắc anh cũng đi. Nè, Thanh, nhớ chạy dưỡng máy, đừng phí sức nó, lúc nào nghĩ rằng máy quá nóng mà muốn ngưng thì để ga nhỏ khoảng mười phút cho nước làm nguội rồi hãy tắt, không có nó đứt nắp quy láp thì chết.”

Rồi anh Hai nói nhiều đến những kinh nghiệm vượt biển đường xa, Thanh nghe và ghi hết vào đầu. Anh biết sẽ có nhiều điều cứu sống mình tuy bình thường nó có vẻ như những lời nói chơi.

“Đường từ đảo Banka đến Djakarta nhiều đá ngầm, một khoảng nữa từ khởi Bali đến đảo Timor nếu chạy đường trong rán xin cho được hải đồ. Ở những chặng đường nhiều đá ngầm, chỉ nên chạy ngày và lúc trời thật tối, đừng nên chạy lúc có trăng và buổi sáng sớm có sương mù, em sẽ không thấy ngời biển. Biển có một ít sóng là lý tưởng nhất. Mỗi lần gặp đèn thì chịu khó xem lại bản đồ và định điểm đứng cho chính xác, sẽ an tâm. Cần nhất là đừng để anh em trên ghe gây chuyện với nhau.”

Thanh nhớ hết. Anh đưa anh Hai xem lại bản tín hiệu morse:

“Anh coi có sai chỗ nào không, chữa giùm. Em thấy ít khi mình dùng tới, nhưng có vẫn hơn.”

Hòa bước nhanh vào lều, nó nhăn nhó:

“Em mới bị ‘thằng mặt ngựa’ quất một roi, nó biểu ‘bay nol.’ Má nó! Mấy thằng ở vọng sau ngủ hết rồi anh Thanh. Anh Triều kiếm anh, chờ anh bên nhà mình.”

Thanh nghĩ đến Phượng, cô ta buồn thấy rõ. Anh hất mặt chào anh Hai và bước ra ngoài. Đêm vẫn nóng và sao sáng đầy trời. Phượng đứng nép sát vào lều ngay khoảng cửa ra vào.

“Không sợ ‘thằng mặt ngựa’ sao? Nó có cây roi dài hai thước,” Thanh đùa. “Sao không đi ngủ đi, Phượng?”

“Nghe mấy anh sắp đi, mẹ em buồn và lo, nhỏ Thu cũng muốn khóc. Ba em hỏi anh có cần gì ông sẽ giúp cho. Ông nói ổng còn nguyên một tập bản đồ và một cây đèn bốn pin. Anh qua đó nghe!”

Cả nhà Phượng thức hết. Ai cũng có vẻ lo âu làm Thanh xúc động. Anh trả lại tập bản đồ cho ông cụ:

“Tụi cháu có, tỷ lệ có phần lớn hơn cái nầy một chút. Cảm ơn bác và cháu chỉ xin cái đèn pin.”

Nhỏ Thu đưa Thanh một hộp còn đầy ắp những phong kẹo chewingum:

“Em mua ở Hạc Dài, nhường lại cho anh, để khi nào hết thuốc hút thì nhai cho đỡ ghiền.”

“À! Nhắc anh mới nhớ.” Thanh quay qua Hòa: “Trước khi xuống ghe, phần em chạy lại đập cửa ông ‘phì lũ’ mua hai chục đô la thuốc Samith xập xì, chắc được năm cây, không có thì chết.”

Thanh liếc Phượng, cô không thể nào vui được với những cởi mở nãy giờ. Bất chợt, cô nháy mắt, như có điều gì chút nữa sẽ nói.

Một giờ rồi, Trường vẫn chưa xong. Thanh về lều và Phượng lẻn theo. Cô đưa cho Thanh một cuốn giấy bao tròn nilon cẩn thận.

“…?”

“Quyển kinh. Quyển kinh Quan Đế! Anh giữ nó, khi nào gặp điều gì nguy hiểm thì lấy ra đọc.”

“Thì mọi chuyện sẽ qua phải không?”

“Anh đừng đùa, gia đình Phượng rất tin tưởng và đã được phò hộ nhiều lần. Còn đây là chiếc nhẫn.”

“…?”

“Khi nào cần, anh bán nó cũng được ít tiền. Phượng còn một chiếc.”

Rồi Phượng quay đi thật nhanh. Thanh nhìn theo dáng người con gái mà thấy nao nao. Anh chợt nhớ ra một điều, gia đình Phượng cũng đang chờ ngày đi Úc, “có thể họ tới trước mình.” Anh chui vào lều.

“Xong rồi, Thanh. Mình đem dầu xuống liền đi.” Triều thúc giục. “Cho mầy hay, dưới ghe bây giờ đã hơn ba chục người rồi mà tụi mình còn rải rác chưa xuống hết, người Tàu nhiều lắm!”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (2)

VÕ HOÀNG

Xuống ghe. Phong và Trường mồ hôi lấm tấm mặt. Hai “ông thợ máy” lộ vẻ hấp tấp ghê lắm.

“Đổ hết dầu vào phuy dưới hầm nghe Phong. Tao với Triều trở lên đem hết xuống, chờ tụi nó thêm chút xíu nữa. Trời ơi, có cả đàn bà, con nít nữa. Ở đâu mà dữ vậy?”

Phong nhún vai không trả lời. Trường “mời” tất cả bà con xuống hết hai hầm sát cabine. Nó nói với giọng gằn gằn đè nén:

“Mấy bà rán giữ đừng cho mấy ông nội con nít khóc nghe. Cảnh sát nó hay, nó xuống… xé xác không còn một người. Tụi tui thì nhảy xuống nước lội vô bờ là khỏe, cho mấy bà hay!”

Người ta im thin thít. Ai cũng sợ cảnh sát. Mấy đứa chuyền các bao nhỏ đựng gạo quăng xuống hầm. Đằng mũi, Chí ngồi chồm hổm trên “cà làng” thủ sẵn chiếc búa chờ chặt dây. Thanh phải đi lần về phía nó:

“Đừng chặt, Chí. Nới lỏng ra thôi, giữa sông đề máy không chạy thì bỏ mẹ, làm sao kéo vô?”

“Ừ.” Chí hết hồn buông búa. Người ta lần lượt xuống, không ai ngăn cản và hỏi han gì cả, chỉ việc giữ im lặng là đủ. Trương lú đầu lên khỏi hầm máy:

“Rồi chưa? Lâu thấy mẹ, chờ cảnh sát thức hả? Thanh!”

“Thằng Hòa, Văn, Tấn… Triều coi tụi mình đủ hết chưa? Thằng Nghiêm đâu? Thằng Giàu đâu?”

Thanh nhét vội quyển kinh vào ngăn kéo chứa lổn ngổn đủ thứ các chai thuốc mang nhãn hiệu Chợ Lớn, Sài Gòn, những cục pin Con Ó không biết còn hay hết điện. Trông nhỏ vậy mà cabine rộng ghê. Từ lúc ghe đến trại, Thanh chỉ một lần xuống và đứng bên ngoài. “Cuộc sống kế tiếp là ở nó, chết cũng ở nó.” Triều sấn tới, kề tai Thanh nói nhỏ:

“Đủ rồi, Thanh. Mẹ! Có cả thằng Cụt và bạn bè tụi nó. Mầy phải coi chừng, đã một lần tụi nó trở về Việt Nam rước người lấy tiền.”

“Giỡn! Nói cho tụi thằng Chí, thằng Văn biết, ra cửa biển là đe họng tụi nó lại. Xong rồi Trường, xuống đi, Phong, xuống đi. Xuống hầm máy đi!”

Chí nới lỏng dây, chiếc ghe theo dòng trôi xa dần bến nhưng vẫn không xa bờ được, bọn Thanh phải dùng sào chống đẩy ra. Một phút, hai phút. Nghẹt thở cho tất cả mọi người. Thanh nhìn thấy trên nóc những mái thiếc trại, đầu người ta lố nhố, chắc ai cũng thức. Vậy mà cảnh sát vẫn ngủ, nếu không, chúng đã bắn dọa.

Ngoài lạch, một chiếc ghe đánh cá Thái Lan đi vào, Thanh nói nhỏ:

“Mầy cầm ‘vô lăng’ nghe Triều. Tao chờ chiếc ghe Thái Lan đi sát mình là nói Trường đề máy, tụi nó không nghe tiếng. Sắp tới rồi… Nhớ cái lạch không? Mắc cạn là thấy mẹ đó.”

Thuyền đánh cá Thái Lan đèn sáng choang và chạy như xe. Ngang qua ghe, tiếng máy hình như lớn hơn lên. Thanh hét nhỏ:

“Đề máy đi, Trường!”

Thanh nín thở.

“Khẹt khẹt… khọt khọt…”

Thanh bỗng muốn khọt khẹt theo tiếng thở dài của máy. Mẹ! Hết chạy nổi rồi. “Rán thêm vài lần nữa coi sao, Trường,” Thanh hét thầm, tay ghì chắc lấy vô lăng.

“Đ. má, bình hết hơi. Vậy mà thằng Phong nói đã thử rồi. C.!” Trường la vang vang dưới hầm máy.

Ba lần nữa thì không còn “khọt khẹt” nổi. Hai hầm đằng trước nhao nhao lên, lại có tiếng con nít khóc. Tiếng Thanh dồn dập:

“Quấn dây vô bánh trớn kéo có nổi không, Triệu?”

“Ờ, có thể.” Chí và Triều đều đồng tình. “Dù sao cũng phải cố hết sức đã, cảnh sát chưa hay mà!”

Thằng Triều hùng hổ bới xốc đường neo sau lái, vội vã quăng một đầu dây xuống hầm máy.

Gần hai chục thằng kéo lần đầu, lại “khọt khẹt” mà có vẻ yếu hơn lần đề máy lần thứ nhất. Thêm lần nữa, còn lại tám chín đứa, rồi lần nữa năm sáu đứa.

“Mẹ! Vô phương,” Thanh kêu nhỏ. “Kéo vô, tiếp nhau kéo nhanh vô còn tính kế khác.”

Lại thằng Triều hùng hổ chạy phóng thẳng tới trước, giựt mối dây kéo mạnh. Còn thằng Chí vừa kéo vừa đùa:

“Hồi nãy tao chặt dây chắc bây giờ vui lắm hả Thanh?”

Thanh im lặng. Anh nhảy qua lưng nhiều người, về đàng trước.

Chưa vào tới bến, người ta đã đứng đầy nhóc trên ghe không biết từ lúc nào. Tiếng xao động bớt được một chút, có lẽ ai cũng sợ làm quá ồn ào không tốt.

“Trời ơi. Mấy người xuống hầm hết đi,” Triều la. “Tụi tui còn một bình đề nữa để ghe bên kia, chút nữa là đi mà.”

Không ai nghe, người ta ùa lên những chiếc ghe mục sát bờ, bỏ lại nhiều thứ đồ đạc lăn lóc. Phải lo giữ thân cái đã, cảnh sát xuống là chết!

Cảnh sát không xuống. Thật ra chúng không hay biết gì cả. Buổi chiều chúng uống rượu ở lều một gia đình Tàu và bây giờ ngủ như chết. Ghe cặp bến êm thắm như lúc rời. Một số người chán chường lần lượt chui rào trở vào trại. Cả bọn Thanh bỏ mặc đồ đạc, qua hết bên ghe sắt đã chìm một khúc, mỗi người chọn một chỗ dựa.

“Sao, Chí?”

Chí nhìn Triều, rồi Triều nhìn Thanh, cả bọn nhìn nhau không thằng nào nói gì thêm.

“Khui thuốc ra hút cho đã đi,” Hòa đề nghị. Và nó làm thiệt! “Lấy kinh ra đọc đi anh Thanh.”

Thanh bỗng phì cười, “Mẹ, thằng này nghe lén.”

Bất chợt như nhớ ra điều gì, anh vỗ mạnh Triều:

“Hồi nãy mầy nói… mình còn cái bình đề khác?”

“Dễ gì có,” Triều xụi lơ. “Tao thấy bà con ùa lên như giặc, tao teo quá nên nói bừa.”

Thằng Văn thỏ thẻ:

“Anh Thanh, chiếc ghe Vũng Tàu vô tháng trước bị chìm một khúc còn cái bình, mà sợ không đủ ký.”

“Ghe đó mấy máy?”

“Hai bloc đầu bạc.”

“Đủ nổ không Phong?” Thanh hỏi.

“Nếu hơi đầy thì nổ nổi, có thể thôi. Chỉ sợ xì hết cha nó như cái thằng khốn nạn này thì tốt hơn kêu cảnh sát dậy cho rồi.”

Chí kéo Văn và Tấn đi liền. Triều nằm vắt ngang xuống sàn ghe hát nho nhỏ. Tất cả những khuấy động dịu lắng lại hết, Thanh mới hay rằng đêm nay trời thật đẹp. Tự nhiên Thanh muốn được ngồi nói chuyện với một người bạn thân về những quan niệm vụn vặt trong cuộc sống. Thanh xoay tròn chiếc nhẫn và nghĩ đến Phượng. Có lần cô nàng ước mình được sống như anh gù Quasimodo ở nhà thờ Đức Bà trọn đời chỉ biết có mười mấy cái chuông đồng. Anh uể oải dựa lưng vào be nhìn lên trời.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (3)

VÕ HOÀNG

Gần ba giờ rồi!

Bọn ba đứa ì ạch khiêng bình đề về tới, trông có vẻ nặng nề lắm. Tự dưng Thanh cảm thấy gần gũi và thương bạn bè hơn lúc nào hết. Anh nhỏm dậy:

“Lần này nữa thì thôi nghe, đừng cho ai hay hết. Tụi mình đủ rồi nghe Triều.”

Mà chắc không còn ai dám trở xuống một lần nữa. Thanh cùng các bạn trở lại những giây phút khó thở tưởng đã bỏ qua.

“Khi nào xong xuôi cho hay nghe Phong. Kiểm điểm tụi mình lại. Lần nầy thì đề tại bến rồi chặt dây chạy nghe Chí. Nới lỏng một chút cho mũi ghe bê ra ngoài, một chút thôi.”

Thanh phụ Phong và Văn thòng cái bình hơi xuống gầm máy. Ba giờ kém năm. “Cố lên! Ai cũng nghĩ tụi mình đã bỏ cuộc.” Trên nóc những mái nhà thiếc, đầu người không còn lố nhố nữa. Người ta ngủ cả, gia đình Phượng chắc đã ngủ, anh Hai chắc đã ngủ. Triều lui cui dọn dẹp các thứ đồ đạc ngổn ngang cản lối đi.

Và thằng Phong đề máy không cần chờ ghe Thái Lan che bớt tiếng động. Tiếng nổ ầm xé rách đêm vắng, tiếng nổ tức tưởi như đã lâu lắm chưa được nổ. Trong năm giây đồng hồ đầu tiên, tất cả hơi ngỡ ngàng và sau đó, ai cũng biết mình sẽ phải làm gì. Bọn Thanh phải ghì lái chạy thẳng qua phía bên kia bờ sông vì ngoài lạch, một tàu đánh cá Thái Lan đi vào trong khi lạch chỉ có thể đi lọt được một chiếc.

Thanh vẫn còn kịp nhìn thấy trên những nóc thiếc, người ta đứng hẳn dậy và ở dưới bến có tiếng la ơi ới. Triều che miệng hét:

“Đừng rọi đèn nghe Thanh, tao có thể đi lọt qua lạch. Cảnh sát thức rồi, coi chừng tụi nó bắn.”

Cảnh sát bắn thật, nhưng chúng chỉ bắn dọa, bắn báo động. Vài tiếng rời rạc và một loạt M16.

“Làm gì tụi nó dám bắn ngay ra đây, đừng lo. Trong đó nhìn ra ngoài nầy đâu có rõ được. Đằng trước là một căn cứ Hải quân có mấy chiếc tốc đỉnh chạy như PCF bên mình, qua ngang nó đừng để ga lớn nghe Triều. Chạy nép sát bên kia. Tắt đèn cabine đi.”

“Ừ! Mẹ, tối quá!”

Nghẹt thở suốt chặng đường mười phút trong sông rồi ghe cũng ra tới cửa biển. Gió lộng thổi tung các thứ quần áo phơi dọc theo hai bên cabine ghe. “Máy ba bloc đầu bạc có khác!” Thằng Phong chui lên khỏi hầm máy và ôm vai Chí nhảy cỡn:

“Ê, hơn một năm mới được đi biển lại, đã thiệt!”

Thanh không cho là “đã.” Đến lúc đối diện với biển rồi đây. Sóng nước đến nhẹ nhàng không làm anh yên tâm được. Biển có những cái hãi hùng đến từ dưới đáy, đến từ một cơn gió thật mát nhẹ, đến từ khoảng trời cao mênh mông mà trong một lúc, khoảng trời bị mặt nước che khuất.

“Chạy thẳng 90, Triều. Chưa đi ngang được đâu, có nhiều vớ ở hai bên cửa sông chạy dài theo bờ, ‘máng’ vô đó thì bỏ mẹ!”

“Mầy lái đi Thanh. Tao đi một vòng ‘điểm binh’ xem có gì đáng ngại không. Thằng Cụt, đ. mẹ thằng Cụt.”

Một tay Thanh chụp vô lăng và xoay nhẹ về trái, tay kia cái địa bàn. Khổ nỗi, kim không quay nếu nó không ở vị thế nằm ngang.

Thanh đứng áp sát vào vô lăng cố dán mắt vào bóng đêm. Anh mường tượng như mình đang ở trên đất và nhắm mắt chạy hết tốc lực, không kể gì trước mặt, không kể gì sau lưng. Đèn pin lúc này không giúp ích được gì cả, rọi lại càng thêm chói mắt. Thanh hét:

“Mấy thằng nào ở không ra trước mũi. Ngó cho kỹ thấy cái gì thì la lên, tao tránh.”

Hai ba thằng đứng xớ rớ không biết làm gì, nghe Thanh nói, khều nhau đi về đàng trước. Thanh quay qua Chí:

“Mầy đi luôn đi Chí. Cầm theo cây đèn pin, có gì thì rọi. Muốn tao quẹo trái thì la lên, muốn tao quẹo phải thì la lên. Đi đi.”

Thằng Chí chồm người lấy cây đèn, bước ra khỏi cabine.

Biển bắt đầu hơi có sóng, Thanh nghĩ: “Ở lằn này chắc tụi nó hết đóng đáy được rồi.” Anh ngửa tay coi lại địa bàn, tay kia xoay vô lăng nhẹ về phía trái. Số nhỏ dần, 80, 70, 60, …, 40.

Triều nhón chân nhìn vào địa bàn, la nhỏ:

“Sao mầy đi lên? Hướng đó là hướng Bangkok, hướng đi Miên, hướng về Việt Nam, Thanh.”

“Mầy cũng biết, tao định chạy như vậy ít nhất cũng một tiếng đồng hồ sẽ bắt đầu tính toán lại. Cảnh sát nó có rượt, nó rượt theo hướng nam, hướng đi Mã Lai phải không? Làm gì tụi nó không biết mình mang ý định đi Úc?”

“Ừ, tùy mầy. Sao cũng được!”

Thanh thở mạnh. Mọi thứ phải rõ ràng và dứt khoát chớ đâu lại “sao cũng được.” Dù sao cũng phải cố tránh không để cảnh sát Thái bắt lại. Cũng may, chuyện vừa rồi chỉ là việc đánh cắp chứ không là đánh cướp, vì hai hôm nay, không thằng cảnh sát nào chịu khó đi tuần vòng “kiếm chác” để đến nỗi tụi anh phải “dùng sức.” Thằng Chí, thằng Văn đỡ “mất công” làm việc.

Trong đêm tối mò mò, ghe âm thầm chạy lướt như tên. Sắp năm giờ rồi, gần một đêm vật lộn với những thứ vướng mắc nhỏ nhặt, cả bọn quên bẵng đi mọi nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Bây giờ thì yên rồi, hơn một tiếng đồng hồ với tốc độ nầy, cảnh sát không thể nào tìm bắt lại được, ngoại trừ trường hợp máy bị hư giữa chừng.

Mặt trời chưa lên khỏi biển. Một vừng sáng chạy dài suốt dãy bên phải ghe. Thanh chợt thở dài, “ở đó là quê hương mình, ở đó lúc nầy bước ra khỏi nhà đã thấy mặt nhau, ở đó đã bắt đầu một ngày cho tất cả những người cùng khổ hiện diện, có kẻ đã hoàn tất một phần công việc trong nhà để lát nữa đây còn khăn gói nối lưng nhau lội bộ suốt hàng chục cây số ngàn làm sưu không công cho nhà nước.”

Đây với đó cách nhau hai ngày đường biển. Tự nhiên Thanh quay lại trông thẳng về chỗ sáng nhất của bóng đêm, hướng 90. “Tháng ba, cuối mùa gió bấc.” Thanh biết hồi này Cha phải thức dậy trước cơn gà gáy còng lưng vét từng nửa mo gầu nước để có mà tưới cây trong vườn khi cây vườn thì mỗi ngày mỗi cằn cỗi đi, không lớn thêm được.

Biển trời lồng lộng, đường về quê an bình càng thênh thang càng làm Thanh thêm ngậm ngùi. Bản đồ cách có hai phân tây mà chưa bao giờ dám nghĩ rằng mình sẽ đi đến đó. Bao nhiêu là cố gắng bấy lâu nay cũng chỉ để khắc phục và tìm kiếm một thứ hạnh phúc cay nghiệt mà ngày trước anh không thể nào tưởng tượng ra được. Chỗ đến, cho tới bây giờ vẫn chưa lường được thời gian và trăm ngàn hiểm họa khác trên đường Úc Châu, Nam Dương hay Mã Lai, Thái Lan… Ở đâu cũng không phải là quê hương thì còn gì để mà nghĩ thêm?

Thanh nghe thèm một chút trên sóng nước bấp bênh mà thật sự được biết rằng mình đang ở vào hải phận Việt Nam.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (4)

VÕ HOÀNG

Trong cabine đã có thằng lăn ra ngủ không biết vì mệt hay vì say sóng, mặt thằng nào thằng nấy trắng bệch. Còn có ước mơ nào nữa không trong lúc nầy? Còn có lời biện hộ nào để cảm thông hơn cho từng đó người cả đời ngu ngơ không cao vọng bỗng chốc bỏ xứ ra đi, “một lũ đầu thai lầm thế kỷ”? Tưởng rằng sẽ được an phận, lại tiếp tục trôi nổi, phiêu bạt, đến bao giờ?

Thanh cài chân vào vô lăng nhoài người mở tung một xách tay không biết của ai lục tìm giấy bút. Anh ghi vội: “Ngày 9-3-78, 3 giờ sáng khởi hành, Songkhla, 6.45 giờ, stop.” Còn năm phút nữa, cố chạy thêm năm phút nữa, “cho gần quê hương…”

Bớt ga. Mọi người bật dậy, ai cũng có vẻ ngơ ngác.

“Tất cả là 28 người, Thanh. Thằng Cụt đi được có một mình. Nó ở dưới hầm mũi. Có bốn bà con gái. Mấy bà lì thiệt! Tao cứ tưởng chỉ có một mình vợ thằng Phong…”

Thanh trả số, ghe quay lờ đờ và cũng có vẻ ngơ ngác như mọi người.

“Xa bờ ba giờ rồi, mình nghỉ máy và xem xét kỹ lưỡng dưới ghe xong hãy đi tiếp nghe Triều. Hai mươi tám mạng cũng đủ rồi. Có Trường với Phong là yên phần cái máy. Mỗi lần gặp tàu mầy cặp nghe, giao cho tao là… lội cả lũ.”

Thằng Triều ầm ừ xong chợt dậm mạnh, la lớn:

“Dậy, dậy, tập hợp. Làm công tác. Dậy!”

Bây giờ là lúc phải chuẩn bị lại, sửa soạn lại tất cả. Dọn sạch sẽ sàn ghe, quăng bỏ những thứ không cần thiết, soạn và nối lại những cuộn dây neo đứt khúc, rối nùi… Sắp đặt những cái phuy trống mai nầy có mà chứa dầu, kiểm điểm lại các thứ phụ tùng máy móc, thiếu món gì cần thiết thì ghi ra gặp tàu sẽ xin, chia gạo và diêm quẹt ra nhiều phần nhỏ để nhiều nơi, sóng tạt ướt chỗ này còn chỗ khác.

Hai tiếng đồng hồ đủ để cả bọn mệt lả người.

“Dầu còn đủ chạy khoảng mười tiếng nữa không Triều? Nói với Trường úp cho ráo dầu hai cái can, mình sẽ xin nhớt thay vào máy.”

Thanh tính trong đầu một cách thức cột bè bằng các thùng phuy chắc và bảo đảm nhất cho từng đó người. Anh quyết định bốn ngày nữa, qua khỏi Singapore mới thực hiện chứ bây giờ chưa cần thiết và chưa đủ số thùng.

Thằng Phong mình mẩy đầy dầu máy, lú lên miệng hầm máy, la bai bải:

“Thằng nào xuống tiếp tao cắt cái nùi lưới quấn cây láp. Mẹ nó, cái này là tụi nó phá đám mình nè.”

Nó ngó Thanh, tiếp lời:

“Anh Thanh, ai đời lại đem lưới thả xuống đường ống láp. Mình bị chơi rồi đó nghe. Tụi nó không muốn mình đi khỏi mà.”

Thanh phóng nhanh xuống hầm máy. Ở trên bờ lâu ngày, xuống ghe đã thấy đầu óc quay mòng mòng, bây giờ xuống hầm máy, mùi dầu bốc xoáy vào óc vào đầu, Thanh muốn ói.

Rõ ràng là một dấu hiệu phá hoại, chắc vì sự ganh tị nào đó. Thanh không cần nghĩ tiếp. Vấn đề trước mắt là làm thế nào khắc phục. Anh ngẫm nghĩ một lát thì chui lên:

“Trường, mình pha dầu thêm vô nhớt thì chạy có được không?”

“Nhớt còn nửa đô, pha thêm phân nừa cũng được. Tao cũng nghĩ nên thay đi, không biết tụi nó có bỏ cái đ. gì trong đó không.”

Nó nói xong thì chui xuống.

“Phải nghỉ thêm nửa tiếng đồng hồ nữa”

Mặt trời lên cao dần.

Chín giờ ba mươi, biển không một bóng dáng chiếc thuyền nào.

Phong đề máy, mọi người cảm thấy tự nhiên những lo âu vẩn vơ ở đâu kéo về. Trời trong vắt mà như không thấy gì đằng trước.

“Quay phải nữa đi Triều, nữa đi. Một trăm bảy, ga tám trăm thôi. Mình còn phải nghĩ đến dầu nữa.”

“Bây giờ tao đi ngủ, mầy lái tới một giờ kêu tao dậy, khi nào gặp ghe tàu cũng kêu tao dậy. Để tao ra nói tụi nó chuẩn bị các thứ dao búa, không có gặp cướp là thấy mẹ.”

“Nó có súng mầy làm đ. gì?”

Triều không đáp, nó chui ra khỏi cabine. Trời bắt đầu hực nóng. Chạy như vậy thì đến tối may ra nhìn thấy mờ dạng bờ biển Thái Lan phía bên phải. Thanh không chắc lắm vì đêm qua, bọn anh phải đổi đủ thứ phương hướng xuôi ngược lên đông bắc.

“10.05 giờ. Hướng 170-800.” Anh tự nhủ gặp tàu sẽ xin hải đồ để gặp đèn định điểm đứng lại cho chắc, chớ bây giờ thì chỉ còn mỗi một cách chạy đúng hướng đã định và bổ óc tính vấn đề nhiên liệu.

Tính cách nào? Gặp tàu thì xin, không cho thì mua chút ít đi tiếp, dứt khoát không ghé lại bờ Thái Lan. Chí và hai thằng nữa chặt sào chống ghe, vạt nhọn đầu sắp dài theo hai bên be.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (5)

VÕ HOÀNG

Ba giờ trưa, trời có một ít gió mùa đông bắc đuổi theo hướng đi nên ghe nóng hừng hực. “Có lẽ mai phải tìm cách che mặt sàn ghe và sắp đặt lại việc canh gác máy, mũi và phòng lái, không có đến lúc xảy ra chuyện, anh em không đủ tinh thần đối phó…” Thanh nghĩ vậy.

Tự dưng Thanh kéo cần ga hết về phía trước, ghe sựng ngược lại. Xa xa ở hướng đông một bóng tàu đánh cá Thái chống mũi hướng về ghe. Nó nhỏ thôi. Thanh đoán loại này không hơn mười người và nó thấy mình ít nhất cũng hơn mười phút rồi.

Thanh la lớn:

“Triều, ghe Thái, Chí, ghe Thái, kêu tụi nó dậy hết, vô cabine đứng, đừng đứng ngoài lố nhố đông quá. Mình chạy không lại nó đâu, để coi nó làm gì, Triều. Đ. má, nó chạy như PCF.”

Lúc này mới biết trời có gió. Thanh đã trông rõ được những lá cờ màu sắc sặc sỡ cột dài theo mấy thanh tre trước mũi tàu Thái. “Ghe nó có phần ngắn hơn ghe mình. Tụi nó đánh lưới dằn.”

“Tụi nó chắc đông. Đ. má, ghe đẹp quá,” Triều bông lơn. “Mấy bà chui hết vô trong nầy đi. Tụi nó đánh hơi hén Thanh?”

“Ừ. Hồi tháng mười năm ngoái cũng loại này vớt tụi tao vô bờ, ghe không hơn bảy thằng đâu, tao biết mà. Để coi. Mầy thấy không, 21 Bangkok.”

“Hai đứa ngoài trước mũi không có cầm gì hết, tao nghĩ không đến nỗi nào đâu.”

“Mấy bà vô trong hết đi,” Thanh hét ầm. Một nhóm đông nép sát bên phải ghe chui hết vào cabine. Thanh liếc thấy mặt nhiều người xanh mét. Anh nối lưng Triều bước ra ngoài.

“Đừng quăng dây gì hết nghe Chí. Coi tụi nó làm gì.”

Tụi Thái quăng dây trước. Bên đó lố nhố những cái thùng gỗ thành ra Thanh không biết rõ đích xác bao nhiêu người. Anh chỉ thấy được năm. Một trong ba thằng trước mũi quăng mạnh dây một cách chuyên nghiệp sấn chụp lên thanh tre xà ngang từ mũi đến hầm số ba.

“Nắm thôi Chí. Đừng tóm.”

Thằng có vẻ là tài công bắt loa tay hét vong vỏng:

“Bây nẩy? Sỏn Kha?”

Nó hỏi mình đi đâu và đưa tay chỉ về hướng Songkhla.

“Để đó tao, Thanh.” Triều vừa đưa tay phụ mấy người chịu thân tàu cho khỏi chạm mạnh vào ghe vừa ngước mặt, hét lớn:

“Hê, Bây Mã Lai Sia.”

Nó nói tiếng Thái cứ như Thái, nó hỏi dầu. Rõ ràng Thanh thấy thằng tài công ngạc nhiên, nó chồm xuống hỏi đủ thứ chuyện. Thỉnh thoảng thằng tài công gật đầu, thỉnh thoảng nó lắc đầu. Mấy thằng đằng mũi cũng chõ miệng sang nói gì với tụi thằng Chí. Một thằng phóng xuống ghe, nó đi suốt một mạch từ mũi đến lái.

“Hê, Phú dỉn, phú dỉn sủi… sủi.” Nó thấy mấy bà hoảng sợ hụp sát xuống sàn cabine thì nghe răng cười.

“Mẹ, thằng này ngang tàng quá.” Xong anh bắc loa tay, lớn tiếng: ”Nó nói gì vậy Triều, rán hỏi xin cho được dầu.”

“Một chút nữa. Nó biểu có vàng thì nó bán dầu cho.”

“Hỏi giá nó xem bao nhiêu một thùng.”

Thằng Thái Lan đã xuống ghe cúi người dở nắp hầm sau lái chong mặt nhìn xuống. Nó hất sợi dây đeo cổ toàn những hình tượng Phật đang lủng lẳng và hình như toàn bằng vàng ra sau lưng. Thanh nghĩ: “Tụi này chắc hiền, không đến nỗi nào đâu.”

Cái mặt thằng Thái Lan thoa loại thuốc gì không biết mà trắng như bột. Nó ú ớ những câu khen chê xong lại nhe răng cười lần nữa rồi ngồi hẳn lên cabine, nhún nhún người ra chiều vui vẻ lắm.

“Ê Thanh, năm chục đô la một phuy, hai chỉ vàng một phuy.”

“Mình có được một trăm hai của anh Hai cho. Mấy thằng kia chắc không có nhiều. Nhưng còn phải để dành. Sao tụi nó bán mắc quá vậy?”

“Trả bớt xem nó chịu không, Triều?”

“Nó không chịu. C., Thanh! Chơi cái màn du côn nghe. Tụi này không có súng ống gì hết.”

Thanh cùng một lúc bất chợt có ý nghĩ như Triều. Anh chưa kịp đáp đã thấy Văn, Tấn, Giàu đứng sừng sững trên tàu Thái. Đằng sau cũng đang có một hàng người vây kín thằng tài công. Bên này ghe, Trường và Phong đứng chặn “thằng mất dạy.” Nó ú ớ nói không ra tiếng.

“Mình xuống hầm nó lục kiếm dầu đi Văn,” Thanh nói lớn. “Để dành tiền làm chuyện khác.”

Anh nhảy qua tàu Thái, bước vào phòng lái.

Triều và Chí lật tung các thùng gỗ không biết tìm gì. Tụi Thái Lan không thằng nào nói gì thêm nữa. Thanh lú ra, la to:

“Đừng có đứa nào làm bậy hết nghe, tóm thêm mối dây đằng sau đi. Dầu thì chắc chắn phải có, kiếm gạo, kiếm cá…”

“Hai thùng dầu giữa lòng ghe còn ít.” Thanh nghĩ hầm máy chắc nhiều hơn. Anh kéo Văn chui xuống, làm thế nào chuyển nhanh qua ghe, không có loay hoay một hồi thêm vài chiếc ghe Thái đến sẽ rắc rối. Thằng Văn lục tung một lúc bốn năm can, cắt phăng những ống cao su nào có thể dùng hút dầu ra nhiều đoạn. Nó hét vang:

“Thằng nào đứng trên miệng hầm chuyển dầu qua ghe mình, trút đại vô phuy, làm cho mau nghe. Anh Thanh coi chừng can nào đầy, dời ống qua can khác…”

Hai mươi phút, chuyển được hơn ba phuy. Tụi Thái sau một lúc hốt hoảng thì trở thành ngoan ngoãn chưa từng thấy. Chúng giúp tụi Tấn, Giàu móc những con cá thu lớn chôn lấp dưới lớp nước đá xoáy nát. Thằng tài công lôi từ hầm cuối cùng ra nào soong, chảo, dĩa, muỗng và chỉ chỗ chứa gạo.

Thanh vỗ vai Trường:

“Nói với Phong xuống hầm máy tháo hết các ống dầu ra gom về một chỗ. Tụi mình đi thì ít nhất hai tiếng đồng hồ sau tụi nó mới có thể chạy máy được. Nhớ đập dẹp mấy đầu ống.”

Ba phuy dầu đủ để bọn anh mò đến Singapore. Thanh nghĩ vậy cũng đủ rồi, anh không có thì giờ chuyển thêm nữa. Vấn đề là làm sao tránh không gặp thêm bất cứ tàu bè Thái Lan khác cho đến khi vượt qua được hải phận Mã Lai.

“Ngoài dầu, gạo, cá đừng cho thằng nào làm gì, lấy gì khác nữa nghe Chí. Những cái cần thiết cho chuyến đi thôi. Sao tao kiếm nhớt hoài không thấy, can nào cũng hôi rình và đen thui.”

Sắp bốn giờ rồi, mọi chuyện phải được giải quyết nhanh hơn nữa. Thanh chợt nhớ ra và thấy bọn anh may mắn quá vì gần một tiếng đồng hồ với sự náo động ở đây, không một chiếc tàu thứ ba trông thấy. Nếu có, thì chắc chắn lại là một chiếc tàu Thái, bao nhiêu là rắc rối sẽ xảy ra.

“Nhớt, tiếng Thái kêu bằng gì Triều?” Trường hỏi. “Mầy xuống đây kiếm tiếp với tao đi.”

Thanh cướp lời nó:

“Qua lấy nhớt bên ghe mình xong chỉ cho thằng tài công coi, nói mình muốn thứ đó.”

Triều quay đi, nó quăng mạnh mẩu thuốc lá ra xa với vẻ bực dọc, rồi càu nhàu:

“Nãy giờ mà không chịu nhớ đến, để bây giờ lu bu.”

Bên này ghe, bỗng dưng tiếng thằng Thái Lan la ơi ới rồi có tiếng như ai đó ôm vật nhau. Thanh phóng ra khỏi cửa hầm máy.

“Ê, đừng dở trò đó ra đây nghe! Tiếng thằng Chí.”

Thanh nhảy về ghe.

Thằng Cụt! Lại thằng Cụt! Thì ra lợi dụng tình thế có vẻ lộn xộn mà phần lép về phía tụi Thái, thằng Cụt sấn tới cố giựt cho được sợi dây đeo cổ của thằng Thái. Nó mà không la thì chắc không ai hay biết hết. Thanh điểm mặt nó:

“Tao đã nói, không được lấy bất cứ thứ gì khác ngoài dầu máy, nhớt, đồ ăn, mầy nghe chưa? Mầy có biết là nếu mình đi không khỏi đất Thái, mình sẽ ra sao không?”

Thằng Cụt im lặng, vẫn còn thở hổn hển. Chí cung tay đấm đưa qua đưa lại trước mặt nó:

“Bỏ cái thứ mọi rợ của mầy đi nghe không? Có tao ở đây, mầy phải biết. Vụ này, tao là tổ sư mà bây giờ tao còn biết suy nghĩ mà.”

Thằng Chí nói thật. Thanh biết nó nói thật. Nó là một thằng làm khuấy động trại Songkhla hồi tháng trước về vụ “thanh toán toàn bộ” số vàng của chệt Tòng giấu trong cái vali hai lớp đáy và chia chác cho gần hết những dân chơi trong trại. Nó bảo, “Việc này là việc nhỏ thôi nghe! Chơi lấy tiếng mà!” Việc đổ bể lúc số vàng còn lại chút ít, nó quăng hết cho cảnh sát Thái, yên chuyện ngay.

Thằng Thái Lan hai tay vịn lấy sợi dây đeo cổ, đi chậm chậm trở về ghe. Mấy thằng kia xúm lại, tiếng Thái Lan nhao nhao lên.

Thằng Cụt ngồi bẹp xuống sàn ghe, ôm đầu chịu đựng những cái nhìn của mọi người. Thanh nói với nó:

“Mầy thấy không ổn thì chút nữa tao bỏ mầy qua ghe Thái Lan cho mầy vô bờ trở lại. Đi, là phải giúp nhau mà chống chỏi với nhiều thứ ghê gớm lắm. Nhất định thằng nào làm gì mà để phiền tới thằng khác là không khá được.”

Thằng Cụt nhìn Thanh, thở hắt một cái thật mạnh. Thanh cảm thấy không nên làm nó đau thêm, anh hét tụi kia tiếp tục công việc.

Phong lú đầu lên khỏi hầm máy:

“Tháo ống dầu xong rồi, có một ống bị gãy tao không biết phải làm sao. Chí chuyển cho mấy cái can xuống tao sang nhớt, thấy rồi.”

Bọn Thái lúc nầy đứng hết đằng trước mũi ghe, không quan tâm gì nữa đến việc bọn Thanh lục lạo và lấy đi những thứ cần thiết. Chúng đứng lui về một góc và cuối cùng, bị lùa về đằng trước.

“Mình cần lấy nước không Thanh?”

“Không, chỗ đâu mà chứa!”

“Đ. má! Hải bàn tụi nó đóng cặp dưới tấm ván ngang trong phòng lái. Tao thấy nếu muốn lấy phải cạy bể miếng ván đó.”

“Thôi,” Thanh nói. “Tao lục không có cái hải đồ nào. Tụi nó quen vùng biển nầy nên không cần có. Mình chạy bằng địa bàn của mình cũng tạm được. Vùng nầy chưa có gì nguy hiểm đâu… Phá ghe tụi nó, rủi chạy không khỏi hải phận Thái lại tấp vô bờ là thấy mẹ.”

Nhớt đem qua xong, bốn giờ mười lăm. Thằng Hồng cẩn thận góp nhặt những thứ gia vị nấu ăn bỏ lốc cốc vào cái thùng gỗ đầy vẩy cá. Nó hét Hòa phụ khênh qua ghe.

“Mầy ra nói tụi nó ít tiếng đi Triều, kêu tụi nó lấy chăn nhúng dầu máy đốt thả trên biển, bạn tụi nó sẽ thấy lại dắt vô, ống dầu ghe nó gãy rồi. Cho tụi nó hay mình từ Songkhla đi Úc và chỉ cần dầu máy với những thứ cần thiết thôi. Nhớ cảm ơn tụi nó nghe.”

“Tao lấy thêm cuộn dây neo nữa.”

Triều nhảy mấy cái là tới trước mũi, nó bắt đầu khoa tay khoa chân. Một thằng bật nắp hầm chui xuống lôi lên hai ba cuộn dây neo đã được xếp khoanh gọn ghẽ. Thằng tài công cười mà miệng méo xệch, nó vỗ lưng Triều và hình như đang khen ngợi cái hình xâm sư tử vắt ngang lưng Triều, miệng cắn mỏ neo, đuôi dài vòng ra trước ngực.

“Hỏi xem ghe nó chạy bao lâu thì tới vịnh Kota Bharu của Mã Lai, Triều.”

Hai thằng lại chỉ chỉ, trỏ trỏ.

“Mười lăm tiếng, chắc ghe mình cũng phải hai mươi. Nó còn nói cảnh sát Mã Lai sẽ bắt nhốt tụi mình.”

“C., nó dọa mình đó. Thôi xong rồi, mình dọt. Về hết cả bên này đi.”

Máy nổ. Chí nới lỏng dây mũi. Hồng đằng lái, ghe bê ra dần và Thanh gài số. Bọn Thái vẫn đứng trước mũi, có một thằng đưa tay vẫy. Bên này vài người vẫy lại. Biển chỉ vẫn một chút gợn sóng nhẹ như trong sông. Hướng 170 tiếp tục. Thanh ghi thêm “một giờ lấy thêm nhiên liệu, 700 lít dầu – tiếp 170-900.” Lần này phải đi ga lớn, chạy trốn mà!

Trên biển, mọi xao động rồi cũng trả về sự im lặng, một loại im lặng đè chìm những khủng khiếp không bao giờ dứt. Có hai vấn đề Thanh cảm thấy không ổn mà không thể nào làm khác hơn được. Thứ nhứt, anh không thể tránh không gặp ghe Thái vì với tốc độ bình thường của mọi chiếc ghe đánh cá Thái, chúng có thể chạy vòng vòng chung quanh anh trong khi anh cố tháo chạy với tốc độ tối đa. Thứ hai, bọn anh chỉ cần cái sống mà bọn Thái chỉ nhắm cái lợi. Nhiều chuyện được nghe kể chuyền nhau trong những ngày tháng ở trại, anh biết đã có nhiều trường hợp bọn Thái không quan tâm đến những thứ gì khác hơn là cái lợi của chúng, kể cả mạng người.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (6)

VÕ HOÀNG

Mọi chuyện xem như ổn, vấn đề còn lại chỉ là thời gian. Bây giờ thì Thanh mới cảm thấy mệt mỏi và cần phải nghỉ. Anh nhờ Chí kiểm điểm lại lần chót số người trên ghe, ghi hết vào một danh sách, kể luôn các cái “nghề” có thể “xài” được trên đường từ đây đến Úc.

“Mầy phải để ý đến chuyện gạo và nước nghe Thanh, còn phần ‘an ninh trật tự’ để tao lo. Dưới này, thằng nào lạng quạng là… chết mẹ với tao.”

Thanh an tâm. Chí là một thứ người của giang hồ. Ở Việt Nam, suốt sáu năm lính, nó toàn sống ở quân trường và quân lao ngoại trừ những thời gian ngắn trốn chui nhủi trong các xó xỉnh tối tăm, chia sớt và sống bằng bánh mì, cơm đụng của các chủ chứa, các động hút, hoặc các nơi giải hàng ăn cắp. Đôi khi, Thanh khám phá ra một vài điều lạ trong con người nó. Cái thằng “bạt mạng cô hồn” như vậy mà nó nói đến chuyện tương lai xa vời một cách chí tình. Những tháng ngày lăn lộn với cuộc sống tưởng không có ngày mai đó, Thanh gặp nó lần đầu tại một bàn cờ tướng trong con hẽm nhỏ ở ngã tư Tin Lành, Rạch Giá. Nó hỏi thăm về đảo Phú Quốc và có ý định sẽ ra đó đăng vào lính địa phương “cho nó nhàn, chớ đ. mẹ, sống như vậy hoài chán quá rồi, không biết bị bắt lúc nào.”

Thanh nhớ có lần nó nói với giọng thật nhỏ: “Má tao còn ở Hà Tiên, có chồng khác, tao thì không ưa ‘thằng chả’ đang sống với bà, đòi đánh lộn rồi bỏ đi biệt mấy năm nay đâu có về.” Nó nói đến những mánh khóe hủy hoại thân thể để được giải ngũ mặc dù dượng ghẻ nó thừa tiền để lo cho nó làm lính ma. Sau đó, nó về đảo thật.

Nó yêu đảo và nhớ đảo đến độ vào trại tỵ nạn, Thanh phải bỏ mất nửa ngày xâm cho nó cái hình đảo Phú Quốc bằng nắm tay trước ngực. “Mầy ngu quá, xâm bằng sữa con so, khi mầy ra nắng cái hình xâm sẽ đỏ ửng và nổi lên.” Nó tìm ở đâu được một cái ly nhỏ loại cạo gió, năn nỉ vợ thằng Khôi suốt buổi sáng xin được ít sữa. Thanh xâm cho nó và chưa thấy cái hình xâm nổi lên bao giờ. Đảo Phú Quốc chìm ẩn trong lòng nó, mất dạng.

Bây giờ nhìn bộ dáng khom khom của nó, tay cầm bút tay cầm giấy, Thanh thấy buồn buồn.

Trời chiều đã làm dịu cơn nóng. Thanh an lòng nghe tiếng máy nổ đều và mạnh biểu lộ một nguồn sinh lực còn dài. Triều thay tay lái, vừa lắc mạnh địa bàn vừa càu nhàu:

“Còn mấy tiếng đồng hồ nữa mới có sao mọc, cầm cái này mỏi tay thấy mẹ. Phải chi có cái gì nhắm hướng.”

“Tao mới khám phá ra mặt trời chiều không xê dịch hướng nhiều lắm thành ra mầy có thể chạy theo nắng. Nhìn cái bóng cột ngoài trước kia, chạy làm sao để nó lọt vào giữa hai ‘dây công’ của hầm số một, giữ như vậy hoài. Trời còn nắng mà. Nhưng rán hôm nay thôi, mai mình qua tới hải phận Mã Lai sẽ chạy cập bờ khỏi cần nó nữa, chừng đó thì chạy đêm lại mất công hơn. Mầy biết bao nhiêu thằng dưới ghe lái được, Triều?”

“Nhiều. Mình có thể chia mỗi ca hai thằng, mà mầy ngủ đi, ngủ tới tối, tới tao ngủ.”

“Ừ, thế nào thì mai mình cũng qua khỏi Thái Lan. Nhớ nhắc thay nhớt nghe.”

Đằng sau cabine, mấy “bà” con gái bắt đầu cãi nhau về chỗ nằm. Ngay ngày đầu tiên, Thanh đã cảm thấy khó chịu về tình trạng nầy. Gì chớ chuyện đàn bà thì Thanh chịu, không có ý kiến, nếu có chăng nữa cũng không giải quyết được gì, anh biết vậy. Ngay cả trong những tình thế cấp bách, cần đến một giải pháp có vẻ “nặng ký,” anh vẫn mắc phải thói quen nhường các bà một bước.

Vợ thằng Phong, chị đàn bà có cái giọng nói “cao” nhất, máy chạy ầm ầm vẫn không làm át đi được. Chị có vẻ là “sếp” trong bốn người đàn bà có mặt dưới ghe. Ngoại trừ thằng Phong và bốn bà, không ai biết bốn bà xuống ghe từ lúc nào, rồi những khi lộn xộn về máy móc, mấy bà ra làm sao. Điều chắc chắn là mấy bà xuống từ trước và không chịu lên kể cả lúc ghe phải cập bến trở lại vì máy không nổ.

Thật ra, theo tụi Chí, Văn, Thanh gọi họ bằng “bà” chớ họ đâu đã ra vẻ bà. Ba trong bọn họ, tuổi vào khoảng hai hai, hai ba, người còn lại là một cô… con nít, tuổi đâu mười bốn. Điều mắc cười là chuyến này cô không những đi theo tiếng gọi của tự do, của viễn ảnh một cuộc sống thoải mái hơn, cô còn… dứt khoát tư tưởng “bỏ cha mẹ già ở lại Songkhla nuôi đàn em dại khờ bụng bự, để ra đi theo tiếng gọi của con tim.” Thằng Văn nói thế!

Thanh chỉ biết chuyện này vài tuần sau khi nhập trại và không ngờ nó mãnh liệt đến thế. Chuyện hơi lạ nhưng anh chịu, không tìm cách để giải thích.

Vợ thằng Phong gọi cô là “con thịt chó.” Hình như ai cũng có quyền gọi cô bằng tên đó và chưa bao giờ Thanh thấy cô phản đối. Ông bố cô là một thứ “nhà giải phẫu,” giải phẫu… chó. Ở trại, những con chó rảnh rỗi, những con chó không chịu sống thỉnh thoảng đến viếng và ủy lạo đồng bào tỵ nạn. Bất kể ngày đêm, người ta đều hân hoan chào mừng chúng, ai cũng quyết tâm bắt cho kỳ được. Và cuối cùng đến tay “ông thịt chó” sau hai ba phút ục ặc trong những tấm poncho dìm sâu dưới nước. “Cô thịt chó” và một lũ em thừa hưởng cái tên “thân thiện” của ông bố, và chấp nhận – không biết từ lúc nào – như một tự nhiên.

Cô hiền và không thích gây sự. Nhiều lần Thanh bắt gặp cô nghiêm mặt lại và nhìn ra đâu xa xa, mà có vẻ như không nhìn gì hết. Vợ thằng Phong bảo cô nằm về phía bên phải cabine, chỗ gần ống khói nhất, cô ngoan ngoãn đẩy cái bị quần áo về phía đó và ngồi bó gối nhìn ra xa. Cạnh đó là A Kiếu, cô gái Tàu Chợ Lớn miễn cưỡng nằm xuống sau một hồi đôi co, Thanh nghe được tiếng “xì” thật dài của cô.

“Chưa biết cô nầy… đi theo ai đấy?”

“Thằng Nghiêm!”

Thanh chỉ đoán mò mà không chắc lắm vì ngày trước, cô mấy lần tới lều ngồi hằng giờ và chỉ chịu “vuốt lại mái tóc” khi thằng Nghiêm về đến. A Kiếu biết chắc Nghiêm sẽ đi trong chuyến này mặc dầu Nghiêm không nói. Điều làm Thanh buồn cười là thằng Nghiêm suốt ngày cứ uống rượu nằm vùi và tỏ vẻ… không màng thế sự, nó thường bỏ đi trước những khi A Kiếu tới lều. “Thế nào rồi cũng có chuyện lu bu,” Thanh nghĩ vậy.

Tự nhiên, Thanh nhỏm dậy đưa mắt dáo dác cố ý tìm Nghiêm. Để làm gì thì anh chưa biết nhưng anh chợt mỉm cười vì thằng Nghiêm đang như một ông thần, ngồi chễm trệ trên một phuy dầu nằm ngang trước mũi, bất động ra cái vẻ suy nghĩ lung lắm. Sắp có chuyện thật! Không biết nó nghĩ gì từ chiều hôm qua tới giờ…

Hình như thằng Triều cũng đang nghĩ đến chuyện nầy, nó quay lại Thanh:

“Không ngủ được hả? Mầy coi thằng Nghiêm nó ‘dô ga’ kìa, hôm qua tới giờ nó có vẻ khờ hơn mọi khi.”

“Ừ!” “Nghiêm khờ” bây giờ khờ hơn nữa. A Khiếu chứng tỏ tình yêu lần này quyết liệt quá làm thằng khờ chới với.

Thanh quay qua sau: “Tao như thằng Nghiêm, chắc tao đành yêu A Kiếu.”

Rồi anh lớn giọng: “A Kiếu, phải không A Kiếu?”

Cô gái Tàu nhỏm dậy, ngơ ngác. Chắc chắn cô không hiểu gì nhưng cũng ỏn ẻn cười. Tự dưng, Thanh cảm thấy hối hận ngay lúc đó. Đùa như thế, trong hoàn cảnh như thế này có đúng lúc chăng? Dù sao, con người ta sống, phải sống thực với lòng mình chứ, anh thường quan niệm như vậy mà!

Thanh tiu nghỉu ngã vật xuống sàn ghe, định bụng sẽ cố giấc ngủ. Triều lơ đãng hát nho nhỏ, giọng hát đong đưa, tiếng mất tiếng còn. Như nhớ ra điều gì, Thanh bật dậy ngay:

“Chết mầy rồi, Triều. Mầy hay gì chưa?”

“…?”

“Cái bình hơi” nó đi theo mầy phải không? Hay là mầy dắt nó theo?”

Không biết chiều nay “mắc cái giống gì,” Thanh nghĩ bâng quơ đủ thứ chuyện – thật ra có một chuyện những cặp tình nhân với nhiều khúc mắc trong chuyến đi nầy – không ăn nhập gì đến mình. Triều cung tay đấm lên trời, cười thành tiếng:

“Tao định nói mầy câu đó. Nhưng chắc tao hỏi lại nó thì hay hơn.”

Đến lượt Thanh cười. “Cái bình hơi” đi với thằng em trai tên Thông. Cô ta mập và cao lớn, rõ là một thứ người khổng lồ. Mỗi lần chen nhau đi ngược chiều dọc theo hai bên cabine ghe, Thanh phải vất vả chuyển tay vịn để eo người ra xa dành chỗ cho cô đi. Nhưng cái nét quá đẫy đà của cô không phải là lý do chính để có cái tên quái gỡ nầy. Tội nghiệp, người con gái thật xấu – xấu đến độ thằng Chí cho là “ghê thấy mẹ,” thằng Văn, thằng Giàu, những thằng nhiều chuyện hơn đàn bà cho là “chị ông kẹ” – lại cưu mang vào thân một cục bướu to tướng trước cổ. Cục bướu khốn khổ đó cộng thêm cái thân hình tròn trịa đáng thương của cô được bọn con trai “ăn cơm nhà, thổi tù và hàng xóm” kim loại hóa, thành ra cái tên “bình hơi,” mặc dù cô tên Nhung, tên đẹp chớ phải chơi đâu!

“Hình như cô ta thương mầy thiệt đó Triều, mầy phải suy nghĩ cho kỹ.”

“Nghĩ cái con mẹ tao. Đừng làm tao teo.”

“Tao nói thiệt đó.”

“Thôi mầy,” Triều nạt ngang.

Ở trại, bọn con trai tụm năm tụm ba nhắc đến “cái bình hơi” chỉ để cười và một điều rất tự nhiên là ai cũng nghĩ rằng cô ta mà thương người nào, người đó vô phúc lắm. Thanh chưa nghe cô ta hát lần nào, chớ nghe tụi nó nói lại, cô ta hát thật hay, “vì… hơi dài.”

“Để ngày mai rảnh rỗi, tao hỏi giùm cho,” Thanh vừa cười vừa nói. “Thế nào cũng có một buổi họp khoáng đại giải quyết thắc mắc và phân chia công tác.”

“Ngồi dậy, Thanh,” Triều la lớn. “Có một chiếc tàu Thái Lan ở phía trong đi ngược chiều với mình.”

Thanh vừa nằm xuống đã phải bật dậy. Chiếc nầy có phần lớn hơn chiếc đã gặp lúc trưa. Nó vẫn ung dung đi theo hướng đã định không có vẻ gì chứng tỏ muốn quay mũi về VNKG 0042. Thanh mong nó không chú ý đến mình. Anh lớn tiếng hét hai ba thằng đằng trước đang đứng xôn xao chỉ trỏ. Trời sắp tối rồi, cố thêm một tiếng đồng hồ nữa là đêm, chạy an toàn hơn.

“Đừng thêm ga, Triều. Chắc chắn sẽ không chạy thoát nếu tụi nó muốn rượt mình. Mà mầy chạy ga lớn, ghe mình sẽ có khói, tụi nó càng chú ý hơn.”

“Nó biết ghe mình là ghe Việt Nam thì giá nào nó cũng rượt!”

“À!” Tự nhiên Thanh nhớ ra. “Nhớ rồi, quay ngang về 90 đi Triều. Nó nhìn sau lưng mình thì khó mà nhận dạng được.”

Triều quay nhanh không cần hỏi thêm. Mặt trời chiều còn một ít, sóng chỉ gợn nhẹ thành ra bên trong nhìn ra bị chói, may ghê. Thanh bước hẳn ra ngoài nhìn chong về chiếc ghe Thái, anh cảm thấy an tâm.

“Với khoảng cách nầy, tụi nó rượt ít nhất cũng gần một tiếng đồng hồ mới bắt kịp mình, thì trời tối cha nó rồi. Mình ẹo đi một chút là đánh lạc hướng được ngay, ghe mình còn ga mà…”

“Mầy đáng là ông nội tao, Thanh. Bây giờ thì tao đ. sợ nó nữa.”

“Vậy chớ hồi nãy mầy teo?”

“Teo chớ! Tụi nó có súng là bốc c.”

Mấy bà vẫn còn sợ, ngồi túa về một phía bàn tán xì xào, ngoại trừ “cô thịt chó.”

Thêm mười lăm phút nữa, tuy khoảng cách không xa hơn bao nhiêu nhưng cả bọn an lòng vì biết chắc tàu Thái Lan không đổi hướng.

“Mình về 170 được rồi Triều. Cứ để y 170 ga cũ, không cần đổi nữa. Chắc phải nói với Cường, Hòa nấu cơm để tối có mà ăn.”

“Ừ! Ăn mì khô hoài khát nước thấy mẹ. Rán hôm nay nữa, sáng mai mình sẽ tổ chức lại tất cả.”

Thanh trở vào cabine, lần này thì nhất định không nói thêm một lời nào nữa, chỉ nghe và cố ngủ. Trời bắt đầu hơi lạnh nên mấy bà đàng sau đang phân chia chăn đắp, lại thêm một màn xí xó nhau…


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (7)

VÕ HOÀNG

Thanh thay lái khoảng hai giờ khuya, đến trời mờ thì đã thấy được những khoảng núi lờ mờ ở bên phải ghe. “Chắc chắn mình đã vào hải phận Mã Lai.” Đằng trước có vài người cũng thức dậy từ bao giờ. Thằng Chí, thằng Nghiêm hai ba đứa ngồi chùm nhum gật gù nói chuyện với nhau.

Như cơn mơ! Hơn một ngày để cả bọn vượt qua những thứ rắc rối ác nghiệt. Trước mắt chỉ là những thứ rắc rối “nhẹ người” hơn, ngoại trừ biển. Hơn năm tháng trời xa quê hương, bây giờ Thanh sống lại với tâm trạng bấp bênh của ngày đầu tiên vượt thoát, bỏ đảo Phú Quốc lại sau lưng, bảy mươi cây số chiều dài đứt làm chín khúc.

Phải rời Songkhla, Thanh cảm thấy một chút gì níu kéo mặc dù tâm trạng không giống như ngày nào gặp bến bờ lần cuối ở hòn Gầm Ghì, rồi ngang qua hòn Xưởng. Dù sao, từng đó người trong cuộc sống khốn khổ ở trại, đêm về chắc cũng để chút lòng nhớ lại cái nơi mình đã một lần cuối quay lưng.

Thằng Phong dưới hầm máy chui lên. Nó cười lớn:

“Vậy là thoát rồi hén, anh Thanh. Phải biết vậy trước khi đi, mình ví ‘thằng mặt ngựa’ đập cho một trận, lấy súng quăng xuống sông, bõ ghét. Mẹ nó!”

“Qua tới Mã Lai rồi, khỏe thiệt rồi!”

Hai đứa im lặng một hồi, Thanh nói chầm chậm:

“Nếu không có vụ Hạc Dài, chắc tụi mình không đi đâu hén Phong. Giờ này ở trại ngủ cho sướng.”

“Anh Thanh biết không, cái đầu tui tới bây giờ mà còn ê. Mẹ nó, mình té xuống đất rồi nó còn lấy giầy đạp lên nữa.”

“Đứa nào bị nặng nhất?”

“Thằng Văn. Một thằng cảnh sát lấy hai bàn tay đập một lúc vô hai cái lỗ tai, chịu gì nổi. Bởi vậy nó mới nổi sùng.”

Sáu đứa tụi nó trốn ra Hạc Dài chơi rồi bị cảnh sát Hạc Dài bắt được và đánh đập tại chợ. Tụi nó nổi khùng đánh lại. Thằng Văn đập bể con mắt một thằng cảnh sát. Một thằng khác bị Chí giật được súng và lận theo gần tới trại mới quăng bỏ.

Thằng Phong chợt bật cười lớn:

“Mẹ, cái bữa cảnh sát Hạc Dài vô nhìn mặt, sáu thằng trốn miết dưới tàu sắt, hơn nửa ngày trời lạnh teo. Bữa đó tui lại bị đau bụng, mắc cười quá.”

“Rốt cuộc thằng Thơ Cà Mau bị ăn bạt tai oan mạng. Cái thằng ngu thiệt, không biết tiếng Thái thì nhờ người ta thông dịch, tài khôn nói cà trật cà vuột, ăn đòn là phải. Mầy biết không Phong. Tụi nó bàn với nhau nếu được cấp trên đồng ý, ít ngày nữa lùa hết dân trong trại ra ngoài rào, điểm danh từng người đi vô, rồi tụi nó nhìn mặt. Tụi bây có trốn cũng kẹt, ra mặt cũng kẹt. Kể cũng may!”

“Ừ, tui có nghe chứ. Nó điểm danh mà mình trốn là có nước thành Thái Lan luôn chớ gì nữa. Hên thiệt.”

Có lẽ trong vài hôm nữa, anh em trong ban đại diện sẽ tìm cách nói cho bọn cảnh sát Thái biết rằng “chuyến đi vừa rồi có mấy thằng đã đánh cảnh sát ở Hạc Dài tuần trước.” Và như thế, mức độ trả thù với đồng bào trong trại giảm đi nhiều. Thanh định sẽ viết thư về cho ban đại diện hay, khi mình lọt qua được Mã Lai.

Chí vào, nó lục hộc tủ tìm thuốc hút:

“Phải chia mỗi ca hai thằng ngồi trước mũi nghe Thanh, thay phiên nhau. Trong cabine nhìn không rõ được chung quanh đâu.”

Trời sáng hẳn, mặc dầu mặt trời chưa mọc. Thanh kéo cần ga về phía trước, xuống thật thấp. Hôm qua đến giờ cứ để ga 900, tội nghiệp nó. Ghe sà chậm lại, vài đứa suốt đêm nằm ngổn ngang đằng trước nhỏm dậy hơi ngơ ngác.

Thanh buông lái bước hẳn ra ngoài. “Mát ghê.” Bờ biển đất nước Mã Lai không khác chi lắm ở xứ mình. Thanh thấy vậy.

“Tắt máy thay nhớt hả Thanh?” Triều vừa dụi mắt vừa hỏi.

“Khoan đã, để ga nhỏ khoảng mười phút hãy tắt. Mình tới Mã Lai rồi đó Triều. Chắc chắn mình ở Kota Bharu, tao tính không sai đâu.”

“Tao cũng mong như vậy. Đ. má, làm sao mà một hồi cảnh sát Thái Lan tới thộp cổ cả lũ. Coi chừng trong kia là Pattani, chỗ hồi trước tụi tao ghé vô một tuần, sát biên giới Mã Lai.”

“Mình đi phải hơn chứ. Kêu Trường, Phong thức dậy chuẩn bị thay nhớt đi mà.”

“Hai tiếng đồng hồ nữa mới thay được.”

“Quên! Nè Triều, từ đây vô bờ chắc hơn một tiếng đồng hồ, tao có ý định mình nên vô đó neo sát bờ, lên chặt ít cây xuống làm sườn cho sàn và cặp vô phuy làm bè.”

“Tùy mầy, mà coi chừng cảnh sát Mã Lai bắt thấy mẹ.”

“Vô nhanh, làm nhanh rồi ra.”

Mấy thằng nghe nói “đổ bộ” thì khoái, tranh nhau dao, búa. Chí cẩn thận kiểm soát lại mối cột của neo, nó với Văn hì hục bê neo ra sát cạnh ghe để sẵn. Bốn năm thằng không tìm được quần đùi, mặc đại quần lót ngồi xổm trông đến tức cười. Hình như đứa nào cũng thích lên bờ “cho biết Mã Lai nó ra làm sao.”

Thanh cho ghe chạy dài theo bờ và chọn khoảng rừng thưa hô lớn cho Chí quăng neo. Không cần biết neo có “ăn” hay chưa, vài thằng nhảy lội, rồi liên tiếp… như một đoàn rái, tụi nó ào lên bờ như quân đội đồng minh đổ bộ Normandie, thằng búa thằng dao tủa vào rừng.

“Tao không vô đâu, mầy hút xong điếu thuốc lội vô trong đó cho tụi nó hay nửa tiếng đồng hồ thì trở về ghe, đừng đi quá nghe Triều.” Thanh quay qua Chí: “Mầy có đi không Chí?”

“Không! Tao sợ lạnh.”

“Sợ nước! Xưa nay mầy vẫn vậy mà. Đem cuộn dây nhỏ lên chặt từng đoạn hai sải tay sẵn, đem vô, có mà bó cây lôi ra ghe. Nhớ bảo tụi nó nhanh nhanh nghe Triều.”

Triều không đáp, nó ôm luôn cuộn dây nhảy tòm xuống nước. Thì ra dưới ghe không còn cây dao lớn nào, mà dao nhỏ thì cắt đau tay.

Tắt máy. Trường lú đầu lên khỏi hầm:

“Thay nhớt luôn ở đây không Thanh?”

“Mầy thấy sao?”

“Mình chạy suốt đêm qua rồi, phải chờ cho máy thật nguội.”

“Ừ! Thì chờ, nhưng thay bao lâu thì xong?”

“Không lâu đâu, hơn nửa tiếng.”

“Ở đây không phải là đất nước mình, hơn nữa không hiểu tình hình bên trong ra làm sao.”

Thanh cảm thấy chưa quyết định gì được trong lúc nầy. Giữa chừng đang thay nhớt, có chuyện, không chạy máy được thì làm sao?

“Hay là lấy cây xong mình chạy ra khơi nghỉ máy vài tiếng đồng hồ rồi thay luôn, mầy thấy sao?”

“Sao cũng được! Trường buông xuôi.”

Dưới ghe không phải chỉ có nó với Triều là “gì cũng được,” mà còn nhiều thằng nữa. Thật ra một phần vì mọi người tin tưởng ở Thanh rồi mọi chuyện lần lần đều do Thanh quyết định một cách tự nhiên, anh biết rõ điều đó và lấy làm lo cũng chính điều đó. “Gần ba chục sinh mạng tự dưng mình có trách nhiệm.”

Bây giờ là lúc mấy bà lên giọng. Vợ thằng Phong vừa nói chuyện vừa nhai mì khô nghe rào rạo bắt buộc Thanh phải quay lại nhìn. Hôm qua tới giờ cô nàng chắc đã ói không còn thứ gì trong bụng. Cô lấy chân đá vào hông một thằng nhỏ đang lơ đãng vén quần gãi đùi:

“Có còn cơm không, “bộ đội”?”

“Còn chút xíu, không được hai chén đâu, chị ăn không?”

“Sao không! Còn gì ăn?”

“Tôm khô.”

Thằng “bộ đội” mười bốn tuổi, nó láu cá và nhát, không biết lội nên không lấy làm thích lắm khi thấy đàn anh đổ bộ. Thanh nhớ nó nhập trại sau Thanh ít ngày và lúc đó, nó mặc đồ bộ đội, thành ra cái tên. Nó là em bà con gì đó với Trương và đến Thái bằng chiếc PCF của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cùng với khoảng mười thanh niên. Chiếc PCF bị cướp ngay tại vàm sông Cái Lớn trong lúc công tác, vì phần lớn thủy thủ là hải quân “cũ” bị trưng dụng, và nó được “rước” trong lúc cùng ông bố giăng lưới cách cửa sông không xa lắm. Theo nó kể lại, anh em dưới tàu cặp vào ghe “bỏ xuống đó ba thằng bộ đội địa phương rồi bắt em đi theo, em biết ba em làm bộ không chịu. Lúc tàu chạy, ông vừa vẫy tay vừa khóc, em cũng khóc.”

Thanh thấy nó lớn hẳn lên chỉ trong năm tháng ở trại và rất ít khi nhắc về gia đình. Ai có ngờ được trong chuyến đi Úc nầy, nó cả gan đèo theo “con thịt chó.” Hai đứa vẫn chưa dám ngồi cạnh nhau ở chỗ nhiều người trông thấy, chỉ thỉnh thoảng liếc nhau. Thanh biết chiều hôm qua vợ thằng Phong càu nhàu “con thịt chó” đã giấu lại một vốc tôm khô để dành cho thằng “bộ đội,” cô nhỏ chỉ biết cúi mặt chịu đựng.

Thằng “bộ đội” hiên ngang chia phần cơm ra hai phần, mỗi phần lưng lửng chén, đưa cho vợ thằng Phong một, còn một nó bưng vòng qua bên kia cabine, chỗ “cô thịt chó” thường ngồi.

Trời có chút nắng rọi. Thanh định chút nữa sẽ xuống nước vẫy vùng “cho giãn gân giãn cốt” và luôn tiện xem xét lườn ghe. Có hai thằng lội trở ra và khoe rằng gặp mấy con dê đen mà ví bắt không được, “tụi kia chê cây cong vòng nên đi tuốt vô trong sâu, có một cái lạch nước ‘lợ lợ’ rộng hai sải, bên kia là cồn cát, chắc có nhà.”

Nước “lợ lợ” là nước không mặn nhưng không được ngọt lắm. Thanh nghĩ mình chưa cần thêm nước và hơi lo lỡ tụi kia gặp người sợ sanh ra rắc rối.

“Hồng lội trở vô hú lớn cho tụi nó biểu trở về ghe đi, được bao nhiêu cây thì được, mình còn phải ra xa thay nhớt nữa.”

“Hòa trở vô với tao đi,” Hồng nói. “Lội ‘mình ênh’ teo lắm.”

Hai thằng phóng xuống nước. Thanh và Chí dọn dẹp trống trải sàn ghe. Xong, anh ngồi thòng chân ra ngoài và cảm thấy lòng thư thái lạ. Hôm nay ngày 10, nếu không có gì rắc rối, anh quyết lòng đến Úc trong tháng này, nghĩa là anh chỉ có ba tuần trên biển. Anh đã từng nói với tụi bạn, chặng đường thật sự “không cần hết thời gian đó nếu biết cách đi và nhất là phải tự tin. Chắc chắn tao làm được!” Thanh nghĩ dứt khoát mình phải có hải đồ và hải bàn, để lúc nào đó “ở một nơi hai ba ngày rồi không thấy bờ bến vẫn tin rằng mình đi đúng đường.” Bao nhiêu chiếc tàu lớn nhỏ tới Úc trước đây từ Mã Lai, Việt Nam chưa ai đi ít hơn ba tuần. Hồi còn ở trại, hay tin chiếc Sông Bé đến Úc mất 22 ngày, anh suy nghĩ nhiều lần. “Nó là một thứ tàu tuần dương, còn mình, ghe đánh cá.” Hôm qua đến giờ, bao nhiêu giờ chạy chừng đó đoạn đường với một nấc nhỏ bản đồ, anh tin mình đã không quá lạc quan. “Phải chuẩn bị phương tiện ghe mình có điều kiện vượt biển như tàu, rồi cứ bẻ cấp của tàu mà chạy.” Thanh quyết định như vậy, qua khỏi Singapore là phải biết!

“’Cái bình hơi’ cằn nhằn gì mà ê a nãy giờ cả tiếng đồng hồ, dài hơi thiệt!” Thằng Chí bực mình lải nhải.

Thanh lắng nghe. Cô nàng đang xài xể thằng em, mới đầu biểu sao không thức dậy tiếp người ta sửa soạn các thứ, thằng em dậy, mà quạu rồi sanh chuyện.

“Bà để tui làm gì thì làm, đừng nói tới tui. Thằng này cũng lớn rồi.”

“Tao làm chị mầy, tao dạy không được chắc?”

“Bà dạy bà còn không xong nữa, bày đặt!”

“Mầy chưởi tao hả Thông?”

Tiếng lớn tiếng nhỏ, thêm hồi nữa thì “cái bình hơi” có vẻ… xì hơi, giọng nhỏ xíu. Thằng Thông đen đủi và gầy còm trông đến tội, có lẽ hôm qua đến giờ nó say sóng không màng đến thứ gì cả ngoài cái việc nằm trùm chăn lăn qua lăn lại.

Có mấy thằng lội trở về ghe kéo theo hai ba bó cây, lớn nhỏ đủ cỡ. Thanh phụ tụi nó lôi cây lên xong thì trở vô cabine lấy thuốc hút.

Vịnh Kota Bharu không lớn và nằm phủ thành phố lớn Trengganu, trong đó là trại tỵ nạn Poulo Bésa chứa mấy ngàn người tỵ nạn. Thanh bước trở ra ngoài nhìn xuống phía Nam. Có một thứ tình cảm kỳ lạ trong anh. “Nhỏ tới lớn, chưa bao giờ ra khỏi nước thành ra khó mà diễn tả cho được lòng con người ở bước đường lưu lạc gặp được đồng hương.” Thanh thấy thứ tình cảm này, mình chưa bao giờ có được kể cả lúc còn ở trại Surat Thami, gặp mười bảy người đi từ Sài Gòn bị chìm ghe giống như trường hợp tụi anh, phải nằm hai tháng vì tội nhập cảnh bất hợp pháp. Anh biết rõ, sau hai tháng tù đó, mọi người đều được đưa vô trại Songkhla cách trại tù mười mấy giờ đường xe. Còn bây giờ, trong kia mấy ngàn con người mà cả bọn nằm đây với cái hy vọng mơ màng, tới một nơi chưa chắc đã tới được.

Thanh nói với Chí:

“Dưới kia là Poulo Bésa đó Chí, chỗ tụi thằng Hùng lỗ tai cọp, thằng Xinh thọt ở đó. Mầy có muốn ghé vô không?”

Chí trề môi, lắc đầu. Thanh không tìm thấy sự phủ nhận quyết liệt trong cái lắc đầu của nó. Anh nói:

“Một chút nổi hứng, tao ghé vô không chừng!”

Bên trong, tiếng hú nhau văng vẳng. Đã có thêm mấy đứa kéo cây xuống sát bờ, chuẩn bị lôi ra ghe.

Mặt trời lên cao dần, buổi sáng trong vắt. Thanh có quyền ước mong một ngày bình yên mới, anh cởi áo hưởng một chút nắng sớm và thấy lòng thư thái, quên hết mọi chuyện.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (8)

VÕ HOÀNG

Còn ít nhất cũng năm tiếng đồng hồ mới ngang qua đó, ngọn đèn quay đã làm là mắt cả bọn. Ngả rẽ vào Singapore dài hằng mấy chục hải lý thênh thang làm Thanh thấy rằng mình sống qua mấy ngày thật sự có giá trị, ít nhất cũng ở một mức độ nào đó. Nguy hiểm chưa đến với bọn anh một cách “nặng độ” nhưng cũng làm Thanh đo lường được chỗ “tới” của nó.

Gần mười hai giờ khuya, những giờ phút cuối của ngày chúa nhật an lành, mai là ngày thứ hai. Thơ Thanh gởi đi hôm gặp tàu dầu Mã Lai có thể đến trại hai ngày nữa, anh Hai biết tin, gia đình Phượng biết tin, mọi người trong trại biết tin và tất cả sẽ an lòng khi hay VNKG 0042 vượt qua khỏi hải phận Thái Lan, Thanh chỉ mong có vậy.

Trọn bốn ngày đầu của cuộc hành trình, đến hôm nay Thanh nghĩ bọn mình đã vượt qua quá nhiều rắc rối và nhất là anh được nghĩ rằng mình sẽ vượt qua nhiều thứ rắc rối khác nữa mặc dầu nó chưa phải lúc xảy đến. Anh đã nhiều lần thử lại và đo lường mức độ chính xác của tấm hải đồ xin được của tàu dầu hai hôm trước, tấm hải đồ chỉ vẽ xuống cách phía nam Singapore vài chục dặm, không bao được những hòn đảo chi chít đáng sợ phía trên đảo Banka. Thanh sợ nhất đoạn đường nầy.

Văn dưới hầm máy chui lên tìm thuốc hút. Nó bật diêm, ánh lửa soi chập chờn gương mặt đen sậm, sần sùi. Thanh buông tay lái, vươn vai:

“Lái giùm anh chút, Văn.”

“Anh lái mình ênh hả? Ca này hai người mà!”

“Ừ, hai người. Thằng Hùng ngồi đằng trước.”

Hồi này, Chí phân công việc có thứ tự hết, đâu đã vào đó. Mỗi ca thức tám người, hai đàng trước mũi, hai đàng sau, hai ở phòng lái và hai dưới hầm máy. Đêm ba ca thay phiên nhau tới sáng.

“Sáng thì mình tới Tân Gia Ba phải không anh Thanh? Chắc mình cũng phải ghé lại đó kiếm thêm ít dầu, hổm rày ăn mấy con ốc ruốc hoài ngán thấy mồ, hết cha nó thuốc hút nữa rồi.”

Thuốc hút hết quả là khổ. Hôm rời Songkhla, thằng Hòa gõ cửa ông “phì lũ” mua theo bốn năm cây thuốc, mới mấy ngày kiểm soát lại thì coi như hết. Thằng Văn cười bí mật:

“Nói vậy chớ tui giấu lại ít đỉnh, chớ anh nghĩ coi, ngu sao mà mình đi xả láng, tụi này nhiều đứa lu bu lắm đó.”

Vậy ra thằng này tính chuyện “lu bu” trước. Cái thằng “chữ nghĩa đầy mình” có khác, nó mà đứng cạnh thằng Chí thì có học gồng mới dám kiếm chuyện. Cứ xem mình mẩy nó thì biết, đằng trước đằng sau, trên vai dưới đùi, chỗ nào cũng có những chữ những hình xâm chi chít, riết rồi không ai thèm cố đọc xem đó là những chữ gì, người ta gọi nó là thằng “chữ nghĩa đầy mình” cho tiện. Thật ra, Văn là một thằng thất học nhưng đối với Thanh, anh trọng một thằng thất học mà có nghĩa khí của một thằng dân chơi thứ thiệt. Ở cái thời buổi này mà thỉnh thoảng Thanh nghe thằng Văn dính líu vào những chuyện không đâu chỉ vì tính hay can dự, hay “xía.” Thằng này mà thấy việc chướng mắt là y như nó ngồi trên lửa, rồi thế nào cũng tìm cách dính vào. Nó không có mặc cảm là một thằng thất học, nhưng rõ ràng nó rất ghét loại người ỷ cái học làm điều qua mặt nó. Gặp chuyện, nó hỏi cho ra phải trái và khi biết được “thằng có học” này không thật tình với nó, nó tìm, rồi gặng hỏi, rồi nắm ngực, rồi bao nhiêu chuyện xảy ra. Ở trại có lần Văn nói với Thanh:

“Mình thất học mà thằng nào khinh là không được, phải không anh Thanh? Nó học nó nhờ, mình thất học mình chịu nhưng mạnh thằng nào nấy sống, gạt gẫm nhau là không khá được.”

Thanh biết, Văn mến và nghe lời anh chỉ vì một điều, anh cũng tỏ ra coi thường những “thằng có học” mà sống không thật tình với bạn bè và nhất là anh biết tìm những cái hay ở những “thằng thất học” như nó và chỉ chú trọng tới cái hay đó trong tình bạn.

“Văn ra kêu thằng Chí dậy nói chuyện chơi, chút nữa là tới ca của nó rồi. Anh cũng thức luôn, cho vui.”

Văn giao tay lái lại cho Thanh, nó khòm người chui ra ngoài. Ở đàng trước, ngọn đèn thỉnh thoảng hực lên từng lúc, đều đặn và an phận. Thanh châm điếu thuốc, lòng nhẹ hẳn.

Đàng sau lái có tiếng hát nho nhỏ, thằng Phong.

“Còn nhớ gì chỗ này không Phong?” Thanh hỏi lớn. “Có phải hồi bảy lăm mầy có đi ngang chỗ này không?”

Thanh biết thằng Phong hồi ba mươi tháng tư có tới Singapore ít ngày và sau đó về Việt Nam bằng Việt Nam Thương Tín từ đảo Guam. Phong một tay vịn đong đưa cây xà đóng dọc theo cabine, một tay giữ vạt áo khỏi bay bốc trước gió, giọng nó nhỏ xíu:

“Phải rồi anh Thanh. Vậy mà từ đó vô tới Tân Gia Ba mất cả nửa ngày chớ không gần đâu nghe.”

“Mình đi khoảng một phần ba từ bờ ra hải đăng thì vào tới Singapore không lâu lắm,” Thanh nghĩ. Thằng Phong vào hẳn trong cabine, thấy Thanh hút thuốc, nó cũng rút một điếu:

“Không ngờ có lúc lại trở lại chỗ này. Mấy năm rồi. Anh Thanh biết không, hồi tui trở về, tụi nó nhốt hết sáu bảy tháng mới tha. Cũng may đó, tại tui còn nhỏ, chớ không thì ở tù miệt mài rồi, tới bây giờ chưa chắc đã ra được. Hồi đó tui mới mười lăm tuổi chớ mấy.”

Thằng này với Triều là hai anh em ruột, quê hương tụi nó ở Hòn Mấu, một hòn nhỏ có khoảng chục gia đình nằm trong quần đảo Nam Du, còn gọi là Cổ Trơn, còn gọi là Poulo Banjang, nằm về phía Tây Nam thị xã Rạch Giá. Hồi còn ở Việt Nam, Thanh đã có nghe một biến động trên đảo này, số thanh niên trên đảo khoảng trên dưới mười người phục rượu bọn cán bộ địa phương chiếm đóng trên đảo và đoạt vũ khí thanh toán bằng hết và cướp ghe vượt biên tới Thái Lan mang theo trên ghe xác một người con gái bị lạc đạn chết. Qua tới trại Thanh mới hay đó là chuyện có thật trăm phần trăm.

Xác người con gái sình thối được đem chôn trong một khoảng đất trống cạnh trại Songkhla. Thằng Phong không được phái đoàn Mỹ nhận vì lý lịch của nó ràng ràng là đã trở về trên tàu Việt Nam Thương Tín, hai thằng anh cũng bị vạ lây. Trong chuyến này, thằng anh lớn nhất, thằng Hải ở lại trại vì sự bất đồng ý kiến với hai thằng em, nhất là Triều. Vả lại nó nghĩ nếu hai thằng em tới Úc, trước sau gì phái đoàn Úc cũng nhận nó, tội gì mà phải theo cho mệt. Thanh chỉ biết rằng nó không nỡ bỏ con bồ mà đi được thôi.

Ba anh em nó và số người đi từ Hòn Mấu đã ở lại trại hơn một năm có lẽ còn vì dính líu tới cái xác chết bị trúng đạn của người con gái. Triều và Phong đi chuyến này là đánh một cú dứt khoát với cuộc sống và ước mơ kéo dài quá lâu rồi.

Thằng Chí, thằng Văn và cả thằng Hùng tiếp nối chui vào cabine. Bây giờ thì mỗi đứa đều cầm trên tay một điếu thuốc, ánh sáng lóe lên từng chập. Thanh nhìn thoáng qua một lượt, sao mặt thằng nào cũng có vẻ hốc hác và khô đét. Mới có mấy ngày mà!

Đằng sau, tiếng chẻ ván cọc cạch, thằng “bộ đội” nấu cháo chắc. “Cháo trắng và ruốc rang muối, ăn khuya thì phải biết.”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (9)

VÕ HOÀNG

05H00, 13-3-78, Hải Đăng Singapore.

06H10, …, Vịnh Singapore.

Thanh ghi thêm vào hải trình những diễn tiến mới. Bây giờ là sáu giờ mười, ngày thứ tư của cuộc hành trình. Ở hướng đông, mặt trời chưa lên khỏi biển nhưng vừng sáng lan rộng ra hơn nửa khoảnh trời. Không có mây thì hôm nay chắc là nắng ghê lắm.

Không biết từ bao giờ, Thanh đã thấy quen được với cái tâm trạng mà trước đây chưa lần nào anh nghĩ tới, tâm trạng của một người chấp nhận dễ dàng và dứt khoát rằng cuộc đời mình gắn liền với sóng và nước, với gió, mưa, nắng và tiếng máy nổ. Mỗi lần chợt nghĩ tới một trong những thứ này, Thanh biết mình phải nghĩ bằng sự cảm nhận hết sức nghiêm chỉnh. “Nó liên quan tới sự sống” chớ đâu có thường! Thanh nhớ lại lời cha anh nói, như nói để chơi chơi:

“Gió, nước, lửa là ba vật thiêng trong trời đất. Nhưng đứng trên bờ thì khó nhận biết được điều này lắm.”

Hồi đó, Thanh muốn tìm xem cái “khó nhận biết” nó như thế nào, mà rồi vẫn chịu. Những tháng ngày lênh đênh trên biển, cũng có khi mưa to gió lớn, nhưng anh vẫn thấy có một chút gì không thật tình với nhau giữa cái nhận biết và tâm tư mình khi đứng trên boong tàu có trọng tải hàng trăm tấn. Nắng với mưa, với gió lúc đó, theo Thanh nghĩ, như một thứ cần thiết nhỏ để điểm trang cho cuộc sống vốn đã có quá nhiều trang điểm. Điều này Thanh càng thấy đúng hơn vào những năm sau đó, lúc anh đọc được trong một quyển sách “loại cấm,” ông Trần Dần khôn khéo đã dùng mưa, gió và nắng trang điểm cho cái sống, ít ra cũng cho cái sống của chính tác giả. Vậy mà cái sống vẫn không khá hơn được.

Nắng với mưa là việc không phải của người, thành ra nói tới nắng tới mưa là rõ ràng muốn vượt qua giới hạn của người, phải “coi chừng.” Thanh mỉm cười một mình. Anh nhớ lại những buổi chuyện trò không dứt với tụi bạn ở một góc quán cà phê chệt Hiền, nhiều lần tụi anh nói tới Trần Dần và những khôn khéo trong một bài thơ, loại thơ chính trị. Thằng bạn, thằng Hà rành lắm, nó nói:

“Mới đầu, đó là Bài Ca Thống Nhất, nói toàn mưa. Thơ chính trị mà nói toàn mưa là đáng ngại lắm phải không. Đâu phải mưa như mưa đàng nam vừa làm vừa chơi, mưa đàng bắc đổ thóc ra phơi.” Xong, nó ngâm với giọng vịt đực:

“Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi
Không thấy phố, không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ…

Rồi biết sao không, Hoàng Cầm, Hoàng Cầm là bạn, khuyên nên làm thêm một đoạn nữa để ‘chứng tỏ lập trường’ mới mong đặng được. Thế là anh chàng thêm, và dĩ nhiên phải nói tới nắng. Sửa luôn tên bài là ‘Nhất Định Thắng,’ này nghe.

Hôm nay
Trời xanh, xanh đục
Nắng lên, đỏ phố, đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa

Anh bước đi
Đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên, trên màu cờ đỏ…”

Khéo tới vậy mà cũng không khá được. Khéo tới vậy mà rồi cũng phải cứa cổ tự tử cho vừa lòng nhà nước.

Thanh không nhớ là anh đã nghĩ gì thêm lúc bấy giờ, chớ bây giờ thì anh biết rõ và thông cảm với tác giả “Nhất Định Thắng.” Dù sao thì cuộc sống ở đó, luôn luôn vẫn là cuộc sống trên đầu sóng ngọn gió, có khác gì đâu. Có lúc cũng cảm thấy được rằng mình đã từng nghĩ “chưa tới” một sự việc nào đó, người ta mỗi ngày mỗi lớn mà!

Ghe lọt vô vịnh rồi, mặt biển phẳng và xanh thẳm. Bên phải nổi lên xa xa những dãy núi con con chạy dài tới trước. Qua khỏi Mã Lai rồi, còn lại chút đó. Bên trái là những hòn đảo tên là gì cà? Những hòn đảo lớn nhỏ dán vào nhau.

Thanh chuẩn bị một số Ăng Lê trong đầu đủ để đối phó với tụi cảnh sát Singapore. Tụi này nói tiếng Anh thì phải biết, cứ như Mỹ chớ không phải chơi đâu!

Từ sau cái lúc ghé vào Trengganu, Thanh biết mình dở ẹt nhất là thứ Ăng Lê chó đẻ này. Hôm trước, bọn anh vào cửa vịnh với ý định kiếm thêm dầu đủ để tới thẳng Djakarta vì anh biết sẽ gặp rất nhiều rắc rối khi phải bắt buộc ghé Singapore. Nói, nó không thèm hiểu, cũng không cho lên bờ làm sao mà viết cho nó hiểu. Cuối cùng, thằng cảnh sát phóng xuống ghe đi lòng vòng xem xét đồ đạc, nó biểu phải ở đây và đợi làm thủ tục nhập trại Poulo Bésa, “trong đó, người Việt Nam đông lắm.” Tụi này man rợ không thua gì tụi Thái, Thanh đã nói với nó:

“Tụi tao không muốn ở đây. Tụi tao muốn đi Úc Đại Lợi.”

“Không được, mầy phải ở đây.”

“Không,” Thanh cố nói. “Mầy cho tao dầu máy, tao đi ngay.”

“Không được, mầy phải ở đây.”

“Mầy bán dầu cho tao. Tao có tiền Mỹ.”

“Không được!” nó hét lên. “Mầy phải ở đây.”

Thanh nhìn lên bờ, người ta bu quanh cầu tàu nhìn bọn anh với những con mắt tò mò bình thản. Anh thấy bóng dáng một thằng mũi cao tóc vàng, anh phóng lên bờ, cố tìm chữ để nói cho nó hiểu và giúp đỡ vì nghĩ rằng mình lỡ vào đây, khó mà thoát ra được. Cuối cùng anh chỉ nói được những gì đã nói với thằng cảnh sát. Người Tây phương lắc đầu, hắn bảo hắn là du khách Ý Đại Lợi và hắn không giúp được gì.

Thằng cảnh sát bắn chỉ thiên một phát, Thanh phải nhảy về ghe sau khi chửi thề một tiếng.

“Ra ngoài đó, và ở đó. Đợi!”

Sếp của thằng cảnh sát ra lệnh. Thanh cho ghe ra giữa sông và trong khi Chí, Văn sửa soạn lại đường dây neo, anh bất thần tống ga phóng tuốt ra cửa biển trước bao nhiêu cặp mắt ngạc nhiên của bọn trên ghe, bọn trên bờ. ”Mẹ mầy, không cho dầu ông cũng phải đi, không thèm ở đây. Ông đi Úc, ông phải tới Úc.”

Vậy mà cảnh sát Mã Lai bắn theo hai ba tiếng lẻ tẻ rồi thôi. Thanh biết như thế vì bọn này có rảnh rang đâu mà thèm làm những cử chỉ ra điều săn sóc đám tỵ nạn lơ thơ ở đâu tới làm phiền. “Đó là một kinh nghiệm chỉ nên tìm dầu ở ngoài biển, kẹt lắm mới phải vào bờ,” Thanh nhủ thầm.

Và hôm nay, bọn anh đã ở vào thế kẹt.

“Thế nào mình cũng phải ghé Tân Gia Ba, tụi nó không nhận người tỵ nạn đâu, mà mình cũng đâu có thèm. Làm gì nó cũng cho dầu để mình đi tiếp, đi đâu cũng được miễn ra khỏi hải phận tụi nó.” Thanh bàn với Triều, Chí, Văn chiều hôm qua và quyết định sáng nay sẽ ghé vào Singapore, như một kiểu làm nũng. Còn không đầy phuy dầu thì đi tới đâu, mong manh quá!

Có nắng. Mặt trời lên, rồi lên cao dần. Bọn Thanh đã nhìn thấy được hình dáng mờ mờ của những tòa nhà cao nằm san sát nhau trên hòn đảo nhỏ. Một vùng sương mù chưa tan kịp như mong manh lên đó và kéo dài ra, xuống thấp, rồi dính liền với mặt biển.

Trước mặt là một đất nước tự do thật sự, nhưng thật tình Thanh không thể tưởng tượng ra được chuyện gì sẽ xảy đến với bọn anh chút nữa đây. “Cứ nhắm thẳng trước mặt mà đi, may rủi không phải là việc của mình,” Thanh nghĩ như vậy. Bao lần rồi, anh cảm thấy cuộc sống sắp tới sẽ dính líu tới nhiều những phiền nhiễu mà một thời gian trước, ở bên nhà, mình không thể nào tưởng tượng được.

Cái “thân phận bé không đâu” của anh, của tụi Triều, Chí, của bao nhiêu người ở Songkhla, ở Poulo Besa và mấy trại tỵ nạn khác, của mấy chục triệu con người ở bên nhà quả là cái thân phận “không đâu.” Có điều, bé mà quá vất vả, vất vả đủ thứ chuyện, vất vả ở khắp mọi nơi.

Lúc này thì trên ghe hình như ai cũng thức hết rồi. Mấy bà nói chuyện với nhau và cười ầm ầm. Ba bốn đứa ngồi chùm nhum đàng trước tranh nhau chỉ trỏ và nói về vẻ đồ sộ của thành phố Tân Gia Ba mà trước đây chỉ có nghe nói, chưa hề thấy bao giờ. Tiếng vợ thằng Phong lớn nhất, át cả tiếng máy nổ.

Lúc bọn Thanh dọn dẹp sàn tàu sạch sẽ và dời các thùng phuy đang cột bè dang dở về phía cabine xong cũng là lúc bọn anh thấy bóng dáng nhiều chiếc ca nô của quan thuế Singapore tiến về phía ghe. Chắc chắn là tụi này thấy mình từ khuya rồi, tụi này giàu có và văn minh mà.

Thanh đi vòng ra sau múc lon nước, “cái bình hơi” nhìn anh, gật đầu chào và hỏi:

“Mình ghé Tân Gia Ba hả anh Thanh?”

“Không ghé, nhưng phải gặp tàu xin dầu.”

“Tụi này không cho ghé vô đâu, có khi còn làm khó dễ nữa đó. Sao anh không chạy thẳng rồi ghé qua mấy hòn đảo của Nam Dương?”

“Ở đó đâu có chắc là có dầu. Mà phải đi xa con đường hàng hải có nhiều tàu buôn quốc tế thì mình phải chuẩn bị nhiều dầu mới dám đi chớ.”

“Cái bình hơi” gục gặc đầu ra chiều đồng ý, xong ỏn ẻn cười với Thanh:

“Mấy bữa nay thấy anh Thanh có vẻ mệt dữ há!”

Mệt là cái chắc, nhưng Thanh thật tình “không dám” nói chuyện lâu với người con gái này. Anh biết mình hơi vô lý nhưng cố gắng không tìm xem vô lý ở chỗ nào. Thanh nhướng mắt chào rồi bước về phía trước, thở nhè nhẹ.

Bất chợt, anh quay lại, nhưng để nói với A Kiếu:

“Ờ nè, A Kiếu, chút nữa A Kiếu ra nói chuyện với tụi cảnh sát Tân Gia Ba nghe. Tụi nó nói tiếng Quảng phải không? Hay nói tiếng Phổ thông? A Kiếu nói tiếng Phổ thông được không?”

A Kiếu đang nằm sấp chống cằm nhìn ra xa, nghe Thanh hỏi thì ngồi dậy, nhanh nhẩu:

“Được, A Kiếu nói được hai thứ hết trơn.”

“Ờ, chút nữa ra ngoài trước nghe, chớ trên ghe ai cũng nói Ăng Lê dở ẹt hà, nghe.”

“Được, chút nữa A Kiếu ra.”

Thanh nói với “cái bình hơi”:

“Chị làm ơn dọn dẹp mền gối, xếp lại cho gọn ghẽ. Kêu đứa nào bắt ống nước phun rửa sau lái và mấy cái nồi cho sạch sẽ. Để như vậy thấy ghê quá.”

“Cái bình hơi” gật đầu tuột xuống khỏi chỗ nằm. “Cô thịt chó” lẹ làng theo sau trong lúc vợ thằng Phong với tay kéo tấm mền đắp thêm lên cái đầu rối nùi, lầm bầm những gì nghe không rõ.

Thanh bước ra ngoài. Bốn chiếc ca nô đã đến gần lắm rồi, trông đã rõ những đường nét trên lá cờ, một thứ cờ trong Liên Hiệp Anh. Những người cảnh sát mặc quần đùi đứng lố nhố nhìn qua bên này. Thanh nhìn đồng hồ, 9 giờ 35.

Thằng Văn soạn lại đường dây neo xong phăng ra mấy sải tay khoanh tròn, thảy sát vô be, nó hét:

“Coi lại dây đằng sau nghe, Hồng. Chút nữa cột cặp ca nô.”

Nhưng tụi cảnh sát Tân Gia Ba không dùng dây của thằng Văn. Hai thằng hai chiếc ca nô cặp hai bên nhảy phóc qua ghe gọn như sóc, tụi nó chòng thòng lọng vào cột. Một thằng trông “giống như Tàu” nói lớn:

“Good morning.”

“Good morning,” thằng Chí đáp lại.

Thanh nhả ga, bước ra ngoài. Hai chiếc kia không cặp, chỉ lửng thửng ngoài xa. “Mình là tỵ nạn mà tụi nầy làm thấy ghê quá, súng ống gì mà dữ vậy!” Thanh nghĩ. Anh lách mình nhường lối đi theo A Kiếu. Thằng cảnh sát kia hỏi Chí:

“Ai là thuyền trưởng? Mầy nói tiếng Anh được không?”

Chí lắc đầu, nó ngó lại Thanh. Thằng cảnh sát hỏi Thanh:

“Mầy là thuyền trưởng, phải không?”

“Phải,” Thanh đáp. “Nhưng tao nói tiếng Anh không thạo. Mầy nói tiếng Tàu được không?”

Thằng cảnh sát nhướng mắt:

“Tiếng Tàu? Được, được.”

Xong nó xổ một hơi tiếng Tàu. Thanh ngoái ra sau tìm kiếm A Kiếu. Đâu đó có tiếng thằng nào phì cười.

A Kiếu chờ thằng cảnh sát nói dứt câu xong, tằng hắng lấy giọng và kê sát mặt nó, nói lớn. Thanh chỉ nghe được hai tiếng “Úc Châu,” phát âm giống hệt tiếng Việt, còn bao nhiêu gió thổi đi tuốt.

Câu chuyện không biết đã tới đâu, chỉ thấy thằng cảnh sát nói lại với giọng dịu hẳn, gương mặt nó có vẻ thông cảm ghê lắm. Thằng cảnh sát “giống như Tàu” hồi nãy đã nhẩy trở về ca nô, đổi lại một thằng khác da ngăm ngăm đen, mặc civil, cái mặt không có cảm tình mấy. Thanh lầm bầm:

“Mẹ, lại gặp mọi. Thằng này chắc làm khó làm dễ gì nữa đây!”

Thật! “Thằng mọi” đi thẳng vô cabine lục lạo một hồi, lúc trở ra, nó cầm theo hai bao thuốc lá Samith và Gold mà bọn Thanh đem theo từ Songkhla. Nó quăng mạnh xuống sàn ghe, hỏi lớn:

“Tụi mầy người Thái?”

Mẹ nó, nó nghĩ tụi mình là Thái Lan! Thanh đáp:

“Không, Việt Nam!”

“Không! Thái!” nó hét lên.

Rồi nó trở vô cabine. Thanh cúi đầu ngẩm nghĩ, thật khó mà diễn tả cho đúng được tình trạng của bọn anh và nhất là sự có mặt ở đây trong một tư thế khác hẳn tư thế của những người Việt tỵ nạn đã tới Singapore trước. Không khéo lại dính líu tới luật pháp! Tụi cảnh sát Thái Lan có thưa gởi gì với Liên Hiệp Quốc không?

“Thằng mọi” trở ra, lần này cầm theo hai ba cục pin mang nhãn hiệu “Con Ó” và hai óp nhang Từ Hương! Nó ngồi cạnh A Kiếu, nghe chuyện vẫn với cái bản mặt hầm hầm.

A Kiếu chắc đang diễn tả đời sống ở trại tỵ nạn Songkhla. Thanh thấy cô ta vừa nói vừa chỉ cái xà rông của thằng Giàu đang vận. Thanh khều A Kiếu:

“Nói cho nó biết ghe này của người Việt Nam tới trại bỏ dưới bến, mình lấy đi nghe A Kiếu.”

“Chỉ cho nó coi hầm nước đá,” thằng Chí xen vào. “Nước đá Việt Nam nhỏ, có bọng ở giữa, nước đá Thái Lan lớn hơn.”

“Tụi này làm chó gì mà biết được điều đó!” Thằng Triều xía vô một câu.

“Nó thấy chữ “Con Ó” là biết liền chớ gì mà nói. Chữ Thái Lan lăng quăng như con lãi chớ đâu được vậy!”

A Kiếu quay lại Thanh:

“Người cảnh sát nói với A Kiếu đó, là nước Tân Gia Ba không nhận người Việt Nam vô nữa. A Kiếu nói A Kiếu biết rồi, A Kiếu xin dầu nó, nó nói nó cho.”

“A Kiếu hỏi nó chừng nào cho?”

“Chiều lận. Nó nói đợi tàu đi tuần tới.”

“Nó hỏi mình ở đâu tới phải không?”

“Ờ. A Kiếu kể cho nó nghe mình bị cảnh sát Thái Lan đánh hoài, nên mình sợ, mình đi ấy ghe của người Việt mới tới trại, mình đi Úc Châu.”

“A Kiếu giỏi quá! Có nói với nó là mình tỵ nạn tụi Việt Cộng không?” Chí vừa cười vừa hỏi.

“Có chớ. A Kiếu nói Việt Cộng dữ hơn cảnh sát Thái Lan. Nó nói nó biết rồi.”

Vậy là phải bấp bênh ở đây chờ chiều mới có dầu. Thanh nghĩ tới mà nóng lòng ghê. Tuy vậy, anh an tâm vì không gặp rắc rối thêm nữa, ít nhất cũng hết ngày hôm nay.

Thằng Giàu lom khom kéo cái neo về be, quay lại ra ý hỏi “thằng mọi,” nhưng thằng này đâu phải là “cớm,” nó nói một hơi với thằng kia, thằng kia gật đầu, xong nó gật đầu với Giàu. Cái neo lộn ùm xuống, tiếng dội lạc lõng giữa biển nước. Trên ghe ai cũng im lặng, hai thằng cảnh sát cũng im lặng, bốn chiếc ca nô và cả VNKG 0042 cũng thôi không nổ máy nữa.

Mười giờ sáng. Mười giờ sáng trong eo biển nhỏ xíu này yên lặng thật. Mấy người cảnh sát Singapore đã trở về ca nô và đùa giỡn với nhau. Thỉnh thoảng Thanh nghe tiếng rè rè của máy liên lạc. Thanh lục lại lá thơ và lôi ra ghi thêm một hàng tái bút: “Gởi lúc 10 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 11 tháng 3 năm 1978 tại hải phận Singapore.” Anh đọc lại lá thơ gởi về trại Songkhla, cảm thấy một ít xót xa.

Hai mươi tám người chúng tôi nhớ hoài những ngày đã sống ở Songkhla. Ở đây, mất đi cái thú ‘chờ nghe tên mình có thơ,’ chúng tôi thấy mất mát nhiều lắm. Cái âu lo của chúng tôi, có lẽ cũng không khác gì cái âu lo của bà con ở trại, làm thế nào có được một cuộc sống kế tiếp mà trong đó, con người ta còn nghĩ rằng mình sống mà làm được những điều mình muốn.

Chúng tôi chỉ mong được tới Úc bình an. Gạo, hôm đi bà con cho đến nay sắp hết, không hiểu rồi mai có được thêm chút nào không chứ hiện tại, chỉ còn ước mơ và niềm tin. Tên Minh, người Quảng Ngãi, Công Giáo, nhưng đã nhận công việc thắp nhang van vái ơn trên mỗi buổi chiều, y cũng không quên câu ‘bình an dưới thế cho người thiện tâm.’ Ở đó, có dịp, bà con cũng cầu nguyện cho chúng tôi với…

Thanh định thầm sẽ viết nhiều lá thơ liên tiếp, gặp bất cứ tàu nào cũng nhờ họ gởi. “Mình gởi thơ về trại, ai không có thân nhân chắc cũng cảm thấy được an ủi.”

Buổi sáng trời trong thật trong, chút nữa mặt trời lên cao hơn nữa sẽ nóng ghê lắm. Mười giờ mà ngước mặt lên nhìn trời đã muốn nhảy mũi. Sắp tháng ba ta rồi, ngày dài dần ra cho tới tháng bảy. “Tháng ba đàn bà đi biển,” gió “lồng trung” sắp đổi sang nồm thành ra cả vịnh Thái Lan biển êm láng. Thanh nghĩ vẩn vơ một hồi cũng đành nằm dài cố dỗ giấc ngủ. “Kệ nó, bây giờ nằm trong vịnh làm sao biết được bên kia đảo Sumatra gió thổi ra làm sao. Đàng nào mình cũng đi tới đó, vấn đề là có vượt qua được hay không thôi. Nghĩ hoài cũng mệt mệt!”

Anh nhỏm dậy nhìn ra hai bên. Bốn chiếc ca nô vẫn nằm im ở đấy, hiền từ nhưng không kém vẻ đe dọa. Đằng trước ba bốn thằng chụm đầu vào nhau đánh cờ tướng, thỉnh thoảng cãi cọ qua lại. Đàng sau, “cô thịt chó” thủ thỉ với A Kiếu chuyện gì đó, lâu lâu hai người phá lên cười. Một số rút xuống mấy cái hầm được chống nắp che bớt nắng. Đã bắt đầu nóng.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (10)

VÕ HOÀNG

Chiều, khi người cảnh sát “giống như Tàu” mang cái mặt thịt còn ngái ngủ nhảy qua ghe thì bọn Thanh cũng vừa nhìn thấy bóng dáng một chiếc tuần dương hạm đang từ phía đông chạy qua. “Loại này giống như một trong số các chiếc LST của hải quân mình nhưng nhỏ hơn một chút.” Thanh nhìn thấy rất nhiều thủy thủ mặc áo quần màu cứt ngựa đi qua lại trên boong.

“Tụi nó vào nhiệm sở tác chiến. Cũng y như mình lúc trước.”

Thanh xúc động, nhớ về một khoảng đời đã qua. Nhớ những ngày lênh đênh với HQ 503 lừng lững ngự trị một vùng biển cả, với PGM 612 khiêm tốn nhưng không kém kiêu ngạo, với chiếc giang đỉnh bé xíu, xông xáo, ngang tàng trên những mảng lục bình ương ngạnh miền Tây. “Hồi đó, sống nổi trôi mà tâm hồn mình bình lặng ghê!”

Thanh khám phá ra mình có quá nhiều thay đổi trong ý nghĩ trước những hình ảnh xét ra không có gì thay đổi. Ở bến Bạch Đằng, ở Hải đội 4, ở trại Tây Kết hay ở Duyên đoàn 32 xung phong, nhìn thấy bóng dáng một con tàu lớn, lớn hơn thế này cũng không cảm thấy mình bé nhỏ đi chút nào, sao bây giờ xót xa quá, lạc lõng quá.

“Đối với biển, bây giờ mình đã là bọt nước thật rồi!”

Chiếc tuần dương hạm đứng hẳn lại, mọi thủ tục để neo một con tàu đã hoàn tất. Nó hụ còi, thằng giám lộ đã thôi phất cờ. Tiếng máy liên lạc lại rè rè.

Rồi “thằng mọi” lại nhảy qua ghe trong khi Chí, Văn và hai đứa nữa kéo neo trở lên theo lệnh thằng “giống như Tàu.” Thanh đề máy, anh biết mình phải cập vào tàu ở phía bên phải vì ở đó, những người thủy thủ Singapore đang lăng xăng chấp nối và kéo những ống cao su lớn bơm dầu.

“A Kiếu,” Thanh nói, “A Kiếu ra hỏi xem tụi nó cho mình bao nhiêu dầu. Nhỡ ít thì phải rán xin thêm cho đầy tất cả các thùng phuy mình đang trống.”

A Kiếu chui ra ngoài. Thanh lách mình tránh và trao vô lăng cho Triều. Anh kéo hộc tủ lôi ra mảnh giấy mà mấy ngày nay anh thỉnh thoảng ghi thêm vào đó những món đồ cần thiết phải xin cho được.

“Anh Thanh! Nó cho mình hai trăm lít dầu máy với mười kí lô đồ ăn. Hai trăm lít nhiều không?”

Thanh nhìn A Kiếu, lắc đầu. Hai trăm lít mà làm cái gì? Mười ký thực phẩm mà làm cái gì? Anh không đáp lời A Kiếu mà bước thẳng tới thằng cảnh sát.

“Mầy cho tao bao nhiêu?”

“Cái gì?” thằng cảnh sát hỏi lại.

“Mầy cho tao bao nhiêu dầu máy?”

Thằng cảnh sát giơ hai ngón tay:

“Hai trăm lít.”

Rồi nó nói thêm một hơi dài thoòng. Thanh nghe không kịp, chỉ biết nó phân trần rằng đây là quyết định ở bên chiếc tàu. Anh cố hỏi nó:

“Làm sao tao đi tới Djakarta?”

Thằng cảnh sát nhún vai, không đáp. Mà đáp làm sao được vì đi tới đâu là chuyện không phải của nó. Thanh thấy mình hỏi như vậy là vô lý, anh quay qua tìm A Kiếu.

“A Kiếu, rán nói với nó. À không, chút nữa cặp tàu rồi A Kiếu rán nói với tụi trên tàu cho mình đủ dầu để đi tới Djakarta vì mấy đảo dọc dọc theo đường mình đi không chắc có dầu đâu nghe. Nhớ là Djakarta, nghe!”

“Djakarta.” A Kiếu gật đầu.

Thằng Triều cặp tàu chính xác và vừa vặn đến độ thằng thủy thủ vừa quăng dây vừa la “good, good.”

Ống dầu được thòng xuống và truyền vô hầm máy. Đàng sau, A Kiếu phải leo lên nóc cabine nói chuyện với mấy người thủy thủ đứng trên tàu. Chí vỗ vai Thanh, nói nhỏ:

“Nó không cho thêm dầu, mình mua chắc nó bán à Thanh. Mình còn tiền mà.”

“Không được, ở cái thế này, mình không nên hỏi mua dầu nó. Nó không thể bán được lại còn ghét tụi mình nữa, mầy biết không? Xin, và làm thế nào để nó cho, nhiều thì nhờ, ít thì chịu. Hỏi mua là kẹt cả hai đàng.”

Chí im lặng, chắc nó đã đồng ý.

Thanh nhét mảnh giấy vào đầu cây sào nứt nẻ và đưa lên tàu, anh hét:

“Tụi bây cho tao cái này, tao cần nó.”

“May, thì tụi nó giúp được!” Thanh nghĩ thầm.

Thằng thủy thủ ngần ngừ ít giây, xong chộp mảnh giấy mở ra đọc. Một lát nó cúi người xuống:

“Hải bàn?”

“Phải,” Thanh đáp.

“Bản đồ?”

“Phải.”

“Pin đèn?” Nó chúm năm đầu ngón tay ra ni.

“Phải.”

“Dây điện? Đèn, đèn gì?”

“Đèn.”

Thanh không biết gọi đèn pha là gì. Đèn pha loại đi biển hay dùng đó mà. Nhưng để “đèn” không thì nó không biết đèn gì thật. Đèn để dành rọi khi vào cửa biển ban đêm, đèn để đánh morse khi gặp nạn, đèn để chớp, phải rồi, đèn chớp. Anh hét lên:

“Đèn chớp, đèn chớp.”

Thằng thủy thủ phì cười, nó gật gật đầu rồi quay đi. Thanh cố tìm xem thằng thuyền trưởng ở chỗ nào nhưng không tìm được. Đàng sau, A Kiếu nói chuyện chắc đến hồi gay cấn, sáu bảy thằng bu nhau lại nghe. Thanh leo lên nóc cabine xong, anh cúi người hỏi Văn:

“Bơm dầu chưa, Văn?”

“Chưa.”

“Ừ, khoan hãy bơm, để A Kiếu xin thêm.”

“Cái ‘cò bơm’ bên ghe mình mà.” Văn cười.

A Kiếu bỗng dưng cười rất dòn và quay lại nói với Thanh:

“Người ta hỏi mình đi bao nhiêu lâu mới tới đây. A Kiếu nói bốn ngày. Người ta cho là lâu.”

“Ờ, lâu. Bởi vì mình phải nghĩ đêm hơi nhiều.” Thanh nhắc A Kiếu:

“Còn dầu máy thì sao? Tụi nó có cho thêm không?”

“Chưa biết đâu, còn phải hỏi lại ông sếp.”

Cuối cùng thì “ông sếp” cũng đồng ý cho đầy tất cả các phuy trống trên ghe. Họ còn cho thêm rất nhiều thực phẩm hộp, thực phẩm tươi, thuốc lá. Những món cần thiết của Thanh kê khai không được thỏa mãn đầy đủ. Một hải đồ in năm 1946 bắt đầu từ khoảng vĩ tuyến 4 xuống tới đỉnh chóp của đảo Banka, như vậy cũng tạm ổn. Thanh định rằng mình sẽ chạy lọt vào kẻ giữa hai hòn đảo lớn nằm phía nam của Singapore và dùng đường trong, sát Sumatra, đi qua kinh Banka để từ đó đi Djakarta. Tuy nhiều đá ngầm nhưng sóng nhỏ hơn nhiều. Hồi này trời có trăng lúc đầu hôm, tới trăng lặn thì nghĩ dưỡng máy vài tiếng, chờ đêm thật tối thì chạy tiếp. Đá ngầm mà cách mặt nước trên dưới một thước rưỡi cũng có thể thấy được ngời sóng, chạy an toàn hơn. “Ra khơi, biết đâu được gió mùa ở miền này thay đổi như thế nào!”

16H10, 13-3-1978. Thanh cho máy nổ. Những cái vẫy tay buồn tủi có dịp lặp lại. Thanh kéo hộc tủ cất vào đó tờ giấy có ghi địa chỉ người thuyền trưởng tàu Hải Quân Singapore. “Khi nào tới Úc Đại Lợi, mầy nhớ biên thơ cho tao hay, tao mừng nghe tin mầy còn sống!”

Bọn Thanh đổi dần xuống hướng 170 thì bị tàu bắn. Chúng bắn rất nhiều loạt ở phía bên phải ghe, để chận đầu chiếc ghe đang quày xuống. Triều la lớn:

“Đ. má, tụi nó bắn. Sao vậy Thanh?”

“Tụi nó không cho đi xuống. Kỳ vậy!”

Thanh lấy lái lại, 130-120 rồi 90. Đàng sau cách khoảng độ 300 thước, chiếc tàu im lặng đuổi theo sau. “Mẹ nó, sao không cho đi xuống!” Thanh cố quay lái về phải thêm lần nữa. Lại bị bắn, lần này dảy nước trắng xóa văng tung lên như một hàng rào bao che hết tầm nhìn của bọn anh về hướng nam. Tụi nó chơi đại liên 50.

“Không cho đi xuống thì đi lên! Mẹ mầy, đi ra ngoài khơi làm cái đ. gì ở ngoải!”

Thanh quay về trái. Lúc này ghe đã lọt ra ngoài vịnh Singapore. Hướng này là hướng chạy ngược về Thái Lan. “Chờ cho tụi nó bỏ mình thì lại đi xuống, mấy hồi.”

Nhưng Hải quân Singapore không cho đi lên, cũng không cho đi xuống. Chúng bắn dọc theo hai bên ghe. Bây giờ thì chỉ còn đi thẳng về hướng đông.

Về hướng đông để làm gì thì Thanh không đoán ra được, nhưng chắc chắn là từ lúc này tới tám giờ tối, bọn anh đã ra hải phận quốc tế.

“Kệ mẹ nó, phí chút dầu ra tới đó sẽ đi xuống sau. Nhưng phải ghi hướng cho đúng.”

Thanh nói với Triều:

“Mầy lái đi Triều, hướng 90. Kệ! Tới tối lọt ra ngoài, mình chạy lằn khơi. Giữ đúng hướng nghe. Tao đi coi sơ lại các thứ, đêm nay chạy chỗ lạ rồi đó.”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (11)

VÕ HOÀNG

3 giờ sáng ngày 15 tháng 3, VNKG 0042 gặp một trận bão khủng khiếp giữa biển khơi. Từ đó đi tới cửa khẩu tỉnh Banju Asink, nơi có thể núp sóng được tới mười tiếng đồng hồ.

Hai mươi bốn giờ kể từ đêm qua gặp mưa lớn, mặc dầu sóng không to, Thanh đã tưởng mình thoát ra được vùng khí hậu kỳ lạ bị bao che bởi các hòn đảo nhỏ chi chít. Vậy mà bây giờ phải thực sự đương đầu với trận bão này. Thì ra ở biển lớn, hai mươi bốn giờ chỉ là hai mươi bốn giờ, không là cái gì khác hơn.

Anh lầm bầm:

“Mẹ. Hai mươi bốn giờ xuôi gió xuống nam với ga 900 cũng không đi tới đâu thật!”

Năm sáu đứa nhớn nhác ôm chăn gối chạy lúp xúp vào cabine. Tấm tăng che sàn ghe mặc dầu đã được cuốn lại, cột cẩn thận vẫn bị gió thổi bức dây và văng mất. Một cái nắp hầm bị sóng tràn lên và trôi đi. Thanh biết rằng lúc này là lúc phải nhớ lại và làm theo những gì đã nghe được trong muôn ngàn câu chuyện về biển cả trước đây. Anh ôm ghì vô lăng xoay về trái để “phân ba” một loạt những ngọn sóng đang hùng hổ từ đằng trước ùa tới.

“Văng mất nắp hầm số bốn, chưa sao đâu!”

Hầm đó nhỏ và kín, nước vào đó chỉ thoát qua các hầm kế bằng hai “lỗ lù” bằng ngón chân cái. Anh hét nhỏ để trấn an Triều và tiếp:

“Xuống hầm máy, hầm số 3 tìm cách đóng kín hai lỗ lù lại. Mau lên Triều, kêu thằng nào tiếp.”

“Sao được! Lấy cái gì mà ém?”

“Đ. má,” Thanh hét, “lấy cây thằng Chí vạt nhọn sẵn rồi đó, quấn vải đóng nhẹ thôi nghe. Tét ván là thấy mẹ hết.”

Triều phóng xuống hầm máy. Thanh kéo phăng hộc tủ quơ một mớ đinh vụn nhụi vào tay thằng Hùng, kê sát tai nó:

“Kéo đại cái mền của ai cũng được, kêu thêm hai ba thằng ra căng đóng kín hầm số 4 lại. Nhớ lót thêm một cây ngang miệng hầm. Nó bọc nước thì tuột hết đó.”

Sóng đánh ngã ụp một bên vách cabine. Thanh nghe tiếng mấy đứa la ơi ới. Thằng Hùng chạy trở vào, một tay lau mặt, tay kia quăng mạng tấm mền xuống, nó thở từng chập:

“Nước đầy hầm rồi, còn đóng lại chi nữa.”

Nước đầy hầm số 4. Vậy là xong một việc, chỉ còn giữ làm sao cho nước khỏi qua các hầm khác. Cái may nhất, theo Thanh nghĩ là nhờ ở những người rảnh rỗi suốt chặng đường từ Trengganu tới Singapore, anh lục lạo và lần lượt đi khắp các ngõ ngách trên ghe với chủ ý thường tình: “thử xem nó như thế nào!” Anh biết hầm số 4 và số 2 kín, dùng để chứa nước đá.

Rồi tới đêm qua, mưa to, to đến độ anh nhìn những hạt mưa thật nặng rơi trên cánh cửa chống phòng lái mà liên tưởng tới những ngày tháng mưa dầm ở xứ mình. Mưa gãy cành cây, mưa xoáy lở đất rồi nước chảy trôi cầu, trôi nhà. Sáng ra, anh bảo Văn tìm cho đủ số đinh “một tấc” đóng hờ vào gáy những nắp hầm “tới chuyện, xách búa ra vỗ là yên chuyện.”

Nhưng không yên được. Sóng đánh trôi chiếc bè bên phải và kéo theo chiếc nắp hầm trốc cả đinh. Ghê thiệt! Bây giờ thì chiếc bè bên trái theo nhịp sóng đưa qua đưa lại và có thể trôi mất bất cứ lúc nào. Dây cột không ăn nhằm gì. Cánh cửa kính đàng trước mặt phòng lái chịu không nổi cái uốn vặn của cabine, nứt nẻ và cong lồi ra. Thanh quơ cán búa tống hết những mảnh kính chưa chịu buông hẳn ra ngoài.

“Ai không có phận sự xuống hầm máy hết đi,” Thanh hét. “Xuống dưới cho vững ghe.”

“Xuống hầm máy!” thằng Văn nói chuyền ra sau. “Xuống hết, xuống hết.”

Có mấy người ngần ngại. Thanh hiểu ý, anh nói lớn:

“Cứ xuống hầm đi, ở trên này ghe có chìm cũng không ai sống nổi đâu, nhảy lội cũng không sống được đâu. Xuống cho ghe nặng đáy, ít lắc. Xuống đi.”

“Không được,” tiếng “cái bình hơi.” “Anh Thanh, xuống dưới là em ói.”

“Ừ, xuống là ói,” vợ thằng Phong tiếp lời. “Ở trên này ướt thì ướt.”

“Xuống, xuống hết.”

Văn vừa hét vừa nhận đầu thằng Hòa đang lom khom chun vào cửa hầm máy. Thằng nhỏ chưa vào lọt thì chiếc ghe dội cao lên và nghiêng hết về bên trái, hết vịn được, nó té lăn. Thằng Văn tiếp tục hét, cuối cùng thì xuống hết, “cái bình hơi” cũng xuống, vợ thằng Phong cũng xuống.

“Bơm lườn còn bơm không, Văn?”

“Còn, bơm cọ cũng còn! Mình cách bờ xa không anh Thanh?”

Cách bờ bao xa? Ai mà biết được. Gần hai tiếng đồng hồ bỏ hướng, chạy ga nhỏ chế sóng, không hiểu mình đang ở chỗ nào. Sáng, Thanh bẻ cấp sau khi đi hết cái hòn nhỏ cuối cùng trong nhóm hòn nằm về phía đông Sumatra, con đường cách những dãy đá ngầm khoảng mười dặm, tương đương với một giờ xe chạy. Qua hai tiếng đồng hồ nếu đi sai hướng quá xa, bọn anh gặp hai điều nguy hiểm. Thứ nhất, dãy hòn nằm ngoài khơi về phía tay trái của lộ trình, thứ hai là dãy đá ngầm. Thanh không ngờ đến lúc này mình lọt vào cái thế thụ động hoàn toàn, nguyên do chỉ vì không nắm vững được tình hình.

“Cứ cái đà này, đến khi nào kê lên đá hay vô hòn mới hay là có chuyện,” Thanh nghĩ. Anh cố giữ thật lặng trí một lúc, nhưng không được. Có quá nhiều nỗi lo âu dồn nén, anh thấy mình yếu đuối quá.

Thanh lấy lái lại đúng 180. Chiếc ghe chịu liên tiếp hai ba lượn sóng trong tư thế buông xuôi, nó cúi gập lại và sắp gãy làm đôi. Thanh nhìn địa bàn, cơn bực tức ở đâu kéo tới. Anh giận mình ngu si không đủ kiến thức để tìm biết những biến chuyển liên quan tới cái sống và cái chết của chính mình.

“Còn đang ở nhịp một, mình vẫn chạy 160. Sóng đi đúng trước mặt.” Thanh nghĩ lại, mấy tiếng đồng hồ qua chế sóng, Thanh có thói quen, hay đúng hơn, vì không thể làm khác hơn được, anh thường quay một ít về phải để “phân ba.” Thanh đoán và rất muốn quả quyết rằng mình đang đi trên đường tới những dãy đá ngầm nằm bên phải của lộ trình. Những dãy đá ngầm không ai có thể thấy được trừ phi thuyền bị kê lên đó, những dãy đá ngầm mà trong hải đồ năm mươi hải lý một phân tây là những cái “đót” mờ mờ bắt đầu từ một voi đất khổng lồ của Sumatra lan ra tứ tung.

Làm sao mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong ba giây đồng hồ tới?

Mưa vẫn ào ào, sóng vẫn dồn dập.

Bây giờ thì chắc chắn không ai nghĩ tới cái lạnh. Trên cabine còn lại năm đứa, năm đứa im lặng theo đuổi ý nghĩ riêng tư. Thanh nhớ một trong những câu chuyện ngày trước, cha Sáu Leo kể cho nghe một vụ đi thuyền gặp bão, lão dùng ngón tay trỏ chỉ thẳng vào mặt Thanh:

“Tao nói cho mầy biết, gặp bão, sóng ít sợ hơn gió. Mầy cứ để ga nhỏ mà lạng, qua được mấy ngọn là có khả năng qua luôn. Tắt máy hoặc đậu lại, nó vật mầy chết liền. Bỏ hết những cái gì làm cản gió. Gió, mà là gió bão biển kỳ lắm, nó theo mầy tới hết trận chứ không như sóng đâu.”

Cái khó của anh là bây giờ phải làm sao không ngừng lại và phải làm sao không đi tiếp nữa. Hình ảnh của một chiếc ghe gỗ va phải đá ngầm đã thực sự tan nát và bồng bềnh trong đầu anh.

“Đậu lại nó vật chết liền.” Nhưng đi tới hoài ghê quá. Mình đang ở đâu trong cái hải đồ này?

Làm thế nào bây giờ?

Thanh nghĩ tới những người thân yêu. Thanh nghĩ tới cha già, anh có cảm tưởng mình được sinh ra chỉ để khắc phục những cái khó khăn vô lý do chính mình gây ra. Trong hoàn cảnh này, Thanh cố tìm một lời lẽ thật thân ái để trách mình. Đối với người cha già, trọn một đời anh chỉ biết nghe lời mà rất ít khi làm theo lời. Anh thèm được có cha bên cạnh trong giờ phút này. Cái cảnh “cốt nhục lưu ly đạo lộ trung” này thật ra ai mà muốn!

Thanh nhớ lại câu nói của Cha và hình như chỉ là câu nói duy nhất suốt ba tiếng đồng hồ buổi nói chuyện cuối cùng anh gặp người:

“Ở xứ người, có thể cuộc sống dễ dàng hơn, nhưng cũng có thể càng ngày càng thấy thiếu thốn nhiều thứ hơn. Con đi, rán mà sống cho khéo để đừng bao giờ phải ân hận về việc mình đã làm.”

Ừ, mới có mấy tháng mà Thanh biết mình mỗi ngày mỗi thiếu đi những thứ mà trước tới giờ, anh không ngờ là mình có. Còn sống cho khéo để đừng bao giờ phải ân hận thì đó là điều Thanh chịu. Bao nhiêu năm, anh chưa bao giờ thử nghĩ xem công việc mình đang làm rồi “nó sẽ ra sao” ra làm sao cả. Bằng chứng là giờ phút này, anh đang sống trong một tâm trạng quá sức lạ ít nhất cũng trong ý tưởng của anh.

Mỗi người có một cái số! Thanh trấn an mình và chợt nghĩ đến Phượng, đến quyển kinh Quan Đế. Hiện giờ quyển kinh còn nằm yên trong hộc tủ. Đêm qua, lúc bắt đầu đoạn đường mà anh cho là gian nan nhất, đoạn đường bắt đầu từ Singapore đi Djakarta, lần thứ nhất anh mở quyển kinh ra, thật tình là “để xem cho biết.” Vậy mà thằng Hòa liếc thấy và quay đi, mỉm cười. Thanh mắng nó:

“Mẹ mầy! Thằng tò mò. Tao chỉ coi thử coi nó ra làm sao thôi mà. Mầy cười cái gì?”

“Chà chà… Vui cười không được chắc!”

Thanh đành nín. Thằng Hòa nói thêm:

“Anh Thanh coi vậy mà có duyên ghê ta ơi. Tui mà được như vậy, nói thiệt với anh, tui ở lại trại, tới đâu thì tới.”

Thanh cũng cảm thấy mình có duyên. Anh quăng cho thằng Hòa một điếu thuốc và vừa cười mỉm vừa xem tiếp quyển kinh.

Trong trang đầu tiên Thanh đã thấy hơi lạ, anh lật tới. Tiếp đó là hai tờ giấy đô la xanh, mười đồng tất cả. Tội nghiệp, Phượng nhín lại, chia sẻ với Thanh những cái nhỏ nhặt như thế này sao? Anh thật sự xúc động.

Có thêm một mảnh giấy, Phượng viết vào đó địa chỉ của người bà con ở Mỹ. “Khi nào tới Úc thì liên lạc với địa chỉ này, Phượng ở đâu cũng biết được tin anh.”

Sau đó, Thanh dùng hai ba cái túi nylon gói quyển kinh lại cẩn thận. Anh viết thêm ngoài bìa: “Ai lượm được quyển kinh trên biển, xin chuyển về địa chỉ trong này.”

Thanh áp mình vào hộc tủ. Sóng lớn đánh ngã tất cả những thứ rời rạc trong phòng lái, sóng lớn làm anh không đủ thăng bằng mở được hộc tủ. Anh muốn đem quyển kinh ra và bỏ vào người.

“Chuyện gì sẽ xảy tới? Ai biết được.”

Với cái tâm trạng như thế kéo dài, thêm một lúc nữa Thanh cảm thấy mình rã rời, thân thể đau điếng, đầu óc nhức buốt. Anh chỉ còn biết nhìn thẳng đàng trước, những ngọn sóng bạc cao ngất không còn nghĩa lý gì với cái bất chấp của một lũ người bất chấp. Thanh quay lại như một cái máy, theo đà nghiêng của chiếc ghe. Tiếng máy lúc này như có vẻ hằn học, trách móc.

Rồi trời chợt bớt gió. Nhưng gió đổi ngọn, không lớn mà rít lên nghe rởn óc. Gió xoay chiều tứ hướng theo đà quay của chiếc ghe trốn sóng.

“Mình lọt vô đám hòn rồi!” Thanh nghĩ.

Lọt vô đám hòn phải lọt vô dãy đá ngầm ngang dọc bủa chung quanh đám hòn. Nhưng sóng vẫn lớn và có vẻ lớn hơn trước. Thanh buông lái:

“Triều lái đi Triều. Tao ra đằng trước.”

“Chi vậy?” Triều hỏi.

Để làm gì thì chính Thanh cũng không biết. Anh phóng ra mưa, gió thổi tạt vô mặt, rồi gió thổi từ đằng sau nhưng càng lúc càng thấy yếu đi. Trời lạnh thật lạnh.

Như thế, năm mười phút qua, Thanh chưa biết mình phải làm gì. Anh nghĩ mãi một điều, mưa gió và sóng nước từ đầu hôm tới giờ không tạo ra cái lạnh là lạ này. Thanh muốn quả quyết là mình ở rất gần những hòn đảo, và cái lạnh này là cái lạnh thoát ra từ đá. Ở quê anh, những người ngư phủ kể cho nhau nghe, về mùa bấc “ở ngoài biển khơi coi vậy mà ít lạnh, vô cửa biển, ngang qua mấy dãy đá giăng lại lạnh thấu xương, lạnh của giáp nước, lạnh của đá.”

Thằng Văn bước ra. Nó qua mặt Thanh và bò sát xuống cạnh hầm số bốn dùng tay kéo tấm mền lên coi thử, xong nó lắc đầu:

“Nước đầy thiệt! Ghê quá.”

Thanh chống tay vào be ghe, anh lần về phía trước và quay lại hét vào tai Văn:

“Ra bỏ neo với tao. Neo lại đi.”

“Hả? Neo làm chi. Lạnh quá!”

“Neo lại. Bớt gió rồi.”

“Sóng lớn lắm!”

Thanh chùn lại. Sóng vẫn còn lớn lắm, anh thấy mình không viện được lý do để thuyết phục Văn. Trong ghe, Triều và Chí nghe tới bỏ neo, hai thằng cùng lên tiếng:

“Neo làm gì?”

“Bộ khùng sao Thanh? Neo sao được!”

Thanh im lặng, suy nghĩ. Hồi lâu anh vịn tay vào cánh cửa sổ phòng lái chồm người vào cabine, nhỏ giọng:

“Tao sợ mình đang lọt vô đám đá ngầm!”

“Bậy,” thằng Triều cố cãi. “Nó cách mình xa lắm mà, chạy thẳng chưa chắc đã tới.”

“Không xa lắm!” Thanh nghĩ tiếp. Cái đà sóng và gió cộng thêm nhiều lần “phân ba” của anh, chiếc ghe lạc đường về phía phải của lộ trình một khoảng không thể tính chính xác được. Tuy nhiên, cái linh cảm vẫn mạnh trong anh. Thanh nhìn ra mưa, nói không cần ai nghe:

“Kệ! Tao ra bỏ neo một mình vậy.”

Mặt Thanh đanh lại. Anh đã quyết định, và cố gượng gạo bò về trước giữa trời tối om.

Thằng Văn theo liền, nó cố nói:

“Đừng neo, anh Thanh. Mình để ga nhỏ xíu mà sợ cái gì.”

“Nghe tao một lần này đi Văn. Tiếp tao.”

Thanh cố đạp cái neo về một bên theo đà nghiêng của chiếc ghe. Nhưng anh không dở lên nổi, vì một tay phải vịn vào be.

“Neo là chết, anh Thanh à.”

“Mầy chết, tao sống chắc! Neo liền đi.”

Cuối cùng thằng Văn tặc lưỡi, không nói nữa. Nó ôm xốc một cái móc mỏ neo lên, Thanh đàng đuôi, anh dùng chân đạp cuộn dây ra một khoảng trống cạnh hầm số một. Chiếc neo nhào xuống nước.

“Dây ngừng chạy là tóm liền nghe. Rồi anh la lớn, bớt ga, trả số đi Triều. Bớt ga, trả số.”

“Neo rồi hả?” Tiếng Chí trong cabine.

“Neo rồi, bớt ga trả số.”

Thằng Văn đã tóm xong mối neo, nó lom khom bò về đàng sau. Thanh ôm gốc cột khoảng giữa hai hầm trước nhịn thở lắng nghe.

Bây giờ thì lại lọt vô tình trạng đáng sợ hơn nữa. Sóng đánh, sóng bốc ghe lên cao, anh nghe được tiếng của sườn ghe bị kéo ngược ra lắc rắc. Anh lầm bầm những tiếng chửi thề.

Thằng Triều la lớn, vừa bò ra:

“Đ. má, một hồi nó xé banh chiếc ghe ra à Thanh. Tao teo quá, chặt neo đi.”

“Không,” Thanh quả quyết.

Ngừng một chút, anh tiếp:

“Kêu thêm ba bốn đứa nữa ra chịu neo.”

“Là làm sao?” Triều hỏi.

“Đ. má, ngu quá. Là mình không tóm chết mối. Ba bốn thằng chịu dây neo lại, sóng đưa xuống thì phăng, sóng đưa lên thì nhả ra. Mầy vô trong lái, tao kêu tới thì tới, tao kêu lui thì lui.”

“Vậy neo làm mẹ gì,” Triều vừa nói vừa bò ngược vô cabine.

“Neo để neo chớ làm mẹ gì!” Thanh nghĩ. Trong lúc này, cái neo được coi là mục tiêu và bọn anh làm thế nào không được rời xa quá mục tiêu đó. Nghĩa là ghe vẫn có quyền chạy ga nhỏ chế sóng và vẫn biết được mình không phải di chuyển nhiều quá trong biển nước đang cuồng nộ.

“Thấy dây chùng lại thì phăng liền nghe tụi bây, để nó quấn chân vịt là chết mẹ hết.”

Dây nghiêng quá, anh hét và Triều dời chỗ cho đến khi sợi dây neo ở vào một góc độ tương đối.

5.30 giờ. Mưa vẫn dai dẳng nhưng sóng đã dịu hẳn đi, không còn bủa vòi nữa. Thanh đã dám tóm dây neo lại và cả bọn ngồi rải rác dựa be ghe nhìn về cái cabine bể vụn một bên vách. Qua cơn rồi!

“Mình xuống hầm được rồi, Thanh hả. Tao muốn nằm thẳng cẳng một chút.”

Thằng Triều bò đi. Chí cũng bò đi, nhưng quay lại:

“Tao kêu mấy thằng lên coi chừng.”

“Yên rồi! Thanh nói, đừng tắt máy ghe nghe Chí. Kêu thằng Phong coi chừng lại hai cái bơm.”

Thanh không xuống hầm vì thật tình anh không chịu được mùi dầu ấp ủ dưới hầm máy, hóc nào cũng nóng hừng hực. Mà mấy hầm trước thì khóa đinh hết rồi.

Anh nằm đại xuống sàn ghe, xoay một bên người cho nước khỏi bắn vào mặt nói thầm:

“Nằm đây cho thẳng cẳng, sóng đưa thì lăn qua lăn lại, ăn nhằm gì, ‘xuống hầm thì em ói.'”

Trong cabine đèn bật sáng trở lại. Thằng Phong chắc đã tìm ra chỗ đứt của đường dây điện rồi.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (12)

VÕ HOÀNG

Ở bên trong một làng nhỏ cách Banju Asink ít dặm, phía dưới dãy núi chạy dọc theo bờ biển của đảo Banka có khói. Khói chiều bay là đà, nặng nề bên sườn, ánh mặt trời soi không thủng. Thanh thấy nhớ nhà ghê.

“Mầy thấy khói lam chiều chưa, Triều?” Thanh hỏi.

“Chưa. Khói lam chiều, là khói gì?”

“Là khói chiều.”

Thanh ở miền Nam từ bé. Những buổi chiều thường được thấy khói vườn nhà ai đó đốt cỏ cháy thành những nhúm nhỏ và phủ lên đó một thứ cỏ tươi hoặc cỏ mục lâu ngày. Lửa không tắt nhưng không lên ngọn và khói đặc lại, ri rỉ lan ra suốt đêm. Thật sự anh nghe nhiều bài hát nói đến cái quyến rũ, cái ngây ngất của buổi chiều khói lam bay loãng vào không gian làm con người ta quên cả thời gian mà ít khi anh cảm nhận được. Bây giờ, ở đây, nhìn khói xa xa bay, chỉ ngửi được mùi nước biển, anh thấy mình mất mát nhiều quá.

Con kinh giữa hai hòn đảo có chỗ hẹp lại, bọn Thanh nhìn thấy được cả hai bên bờ.

Bên kia là Sumatra, một hòn đảo lớn nhất nhì của xứ Nam Dương mà trước đây chỉ biết trong những bài học địa lý lớp ba lớp tư, cũng dừa xanh um tùm mọc, cũng sóng vỗ bờ đá, cũng cát trắng chạy dài.

Có một vấn đề xem thì trống rỗng mà thật sự chất chứa quá nhiều thứ, trong óc Thanh. Anh biết mình không giải quyết được gì, cái chuyện quê hương của người ta và quê hương của mình bây giờ đã xa quá, nó như một công án nặng chình chịch đè lên người anh thiền sinh mới tập tễnh.

Thanh thở dài, chui vào cabine.

Đàng trước mấy thằng đánh cờ tướng cãi nhau ỏm tỏi. “Tụi này thiệt không biết lo gì hết!” Hôm qua, đêm, lại chịu thêm một trận mưa dai dẳng mặc dầu sóng không to như đêm trước. Thằng Hồng té xuống hầm máy bể một bên mặt và sắp gãy một giò, chỉ ngồi mà lết. Vợ thằng Phong lấy muối thoa vô mặt cho nó và bó chân bằng dầu “cù là Thái Lan.” Thằng nào cũng lo ra mặt. Sáng lại thì đâu vào đấy.

Hầm số bốn được đóng kín lại bằng một cái thùng phuy chẻ ra và đàn cho thẳng mặt. Thanh bỏ ra hai tiếng đồng hồ huy động anh em dời đá dằn ghe hết xuống hầm số ba và hầm lái, dầu máy cũng được chuyển hết xuống hầm máy. Sau trận bão đêm 15 tháng 3, Thanh cảm thấy mình còn phải cẩn thận hơn nữa và anh để tâm đến việc sửa chữa những cái bè còn sót lại.

“Chỉ mới một phần ba đường mà xem ra đã có vẻ xơ xác rồi.” Cabine xiêu vẹo, đắp vá trông thảm quá.

Cái bàn thờ “Bà Thủy” được thằng Minh Quảng Ngãi đem ra phơi nắng và đóng vá lại, nó dùng dây quấn chung quanh chiếc lư hương bị sóng đánh ngã bể làm ba lại và bỏ miếng “mốp” vào đó thay cho cát, vừa cười vừa nói:

“Chà, còn có chút cát ở Việt Nam đem qua cũng bị sóng cuốn mất, xài đỡ ‘mốp ngoại quốc’ vậy.”

Thanh cũng cười theo, nhưng anh thấy một chút xót xa trong cái đồng tình của mình. “Ở hoàn cảnh này, không đồng tình cũng không xong.”

Nằm nghĩ quẩn một chút, Thanh nhỏm dậy, ra ngoài ngồi sà vào đám cờ tướng. Anh thấy rằng mình cũng nên có ít phút thoải mái cho nhẹ bớt cái đầu, để còn đối phó bao nhiêu việc sắp tới.

Cho tới lúc những quân cờ xanh đỏ gần như trùng màu nhau thì biển đã có ít sóng. Lúc này, VNKG 0042 ra khỏi con kênh thiên nhiên, nó bỏ lại đằng sau lưng những ngọn núi mập mờ như khói. Trời bắt đầu lạnh, sàn ghe còn lại vài đứa nằm vắt vẻo. Thanh gõ gõ mấy quân cờ:

“Tối rồi, nghỉ mầy!”

Chí nhoài người lấy cái hộp, nó bỏ nắm cờ vào đó và lượm từng con khác, xếp cuốn bàn cờ lại.

“Bao lâu nữa thì tới Djakarta?”

“Chiều ngày mốt. Đây tới đó mình đi khơi rồi!”

Trời tối hẳn thì ghe bị cạn. Ở biển khơi cách bờ một giờ mà bị cạn. Thanh nghe rõ lồng ngực mình dội thình thịch lúc anh ngồi bật dậy:

“Cái gì vậy Triều?”

“Cạn! Kỳ vậy. Ngoài khơi mà cạn.”

Cồn cát trong hải đồ là những vùng nước không sơn màu gì cả. Thứ này anh đã nhiều lần phải chạy càn lên đó, ai ngờ lần này vướng phải. Đàng trước, Văn và mấy thằng nữa kéo sào nghe sồn sột. Thanh vọt ra ngoài sau khi hét vào tai Triều:

“De, de lại. Bẻ hết lái qua bên này rồi hết qua bên kia.”

Hai bên hai sào đẩy ngược về đàng sau. Thanh vỗ vai Hùng:

“Qua bên kia luôn. Đẩy một bên thôi.”

Chiếc ghe chờn vờn, hơi lắc lư nhưng không lui được chút nào. Thằng Triều de, khói đen từng tảng tung lên trời. Sức của nó chỉ có vậy.

7 giờ tối. Giờ này mà xuống nước ghê thấy mẹ! Thanh nghĩ, nhưng cũng phải rán. Anh quay về cabine:

“Thôi, Triều! Để ga nhỏ, gài số máy rút coi ống chỉ quay không?”

“Ừ! Đặt neo ‘xệ’ phải không?”

Thanh không đáp, anh chồm người ra ngoài. Coi, cái ống chỉ quay chầm chậm nhưng chắc nịch.

“Rồi, quay rồi. Trả lại đi.”

Triều trả số, nó bước ra ngoài, hét vang vang:

“Người nhái. Thằng nào người nhái, ôm neo cho tao ‘xệ’.”

“Soạn neo đi Văn,” Thanh nói. “Soạn luôn năm sáu đường dây nhỏ, thằng nào xuống nước thì cột ngang lưng thằng đó, nước chảy ghê lắm.”

Khi năm thằng ngụp lặn kéo dần chiếc neo ra xa, phía đằng sau thì Thanh cũng vừa nhìn thấy một hàng mây đen kịt theo ánh chớp ở hướng tây nam, hiện lên khỏi mặt nước. Trời sắp mưa nữa rồi!

Thằng Chí búng tay “chóc chóc”:

“Mấy thím, mấy thím này, ra đàng trước, xuống hầm ngồi đi. Dây nó đứt một cái, nó văng gãy cổ hết, gãy cổ hết.”

Vợ thằng Phong “xì” nhẹ một tiếng nhưng cũng luống cuống túm tấm chăn nhảy phóc xuống. “Cái bình hơi” hỏi Chí:

“Mắc cạn hở anh Chí?”

“Chớ gì nữa! Còn phải hỏi!”

Cô nàng chép miệng định nói thêm câu gì nữa nhưng có lẽ thấy “cái giọng” của thằng Chí như vậy, nên thôi.

“Hầm số ba thôi nghe,” Triều nói. “Đừng ra đằng trước.”

Thằng Cường ôm theo một đầu dây phía bên trái nhảy xuống nước, nó giơ hai tay lên trời:

“Đã thiệt! Nước tới lỗ rún hà!”

Thêm một đường dây bên trái được kéo thẳng thì máy rút bắt đầu “xệ.” Hòa một bên, Chí một bên, mỗi đứa một ống chỉ. Dây quấn vừa hết vòng một thì ở dưới nước, tiếng thằng Văn la ơi ới:

“Neo cày, neo cày. Khoan.”

Có vẻ không khả quan nhưng phải rán. “Xệ” lần thứ hai, ống chỉ chạy mà dây không vô. Đến lúc dây vô lại cày neo.

Bấy giờ, nước chảy luồn qua kinh Banka hợp với giòng nước bên ngoài cùng chiều nên kéo dài cồn cát ra, có lẽ ra tới giáp nước mà Thanh thấy trên hải đồ. “Nó cách đây hai ba tiếng đồng hồ lận, mà phía bên kia.”

Bọn Thanh bị cạn ngay vào lúc bắt đầu, từ phía bên này cồn cát. De lại ngược giòng nước đang chảy xiết đâu phải dễ. Anh nói với Triều:

“Vô phương đi lui lại. Mầy để ý, nếu ghe nhúc nhích được thì lấy từ từ về phải nghe, lấy theo nước chảy. Bây giờ dời neo ra đàng trước, một bên thôi, ‘xệ’ một bên.”

Tội cho mấy thằng dưới nước. Trời lạnh rồi, chắc nước cũng lạnh lắm. Tụi nó vương mắc đủ thứ dây ở dưới đó.

Gió thổi vèo vèo sợi dây cột ngọn cờ SOS tới nóc cabine, nhẹ mà đều.

“Gió ngược nước, mà gió này không phải gió thường đâu,” Thanh nghĩ. Làm gì cũng có sóng lớn.

Bị cạn mà gặp sóng lớn ngược nước chỉ có chết. Sóng đưa ghe lên cao rồi “để nhẹ” xuống cồn, ghe cây chịu gì nổi! Làm thế nào cũng phải thoát ra đây trước khi sóng lớn tới. Thanh hét:

“Thêm mấy đứa xuống nữa, đem neo ra đằng trước mau mau. Nhớ cột lưng lại nghe, nước chảy…”

Vậy mà “xệ” cũng không thấy đi chút nào. Chiếc ghe nghiêng về phải gần hết độ nhưng vẫn nằm ì ra đó. Triều bớt ga, rồi lại lên ga. Nó cố hết sức nó, theo sức máy.

“Nước lớn phải không Thanh?”

“Ừ, nước lớn. Nước qua kinh mà vô vịnh thì lớn, nhưng lớn chậm lắm. Mầy thấy gió không? Nước lớn đâu có kịp gió. Nguy lắm nghe Chí!”

Chí im lặng một lúc, nó tặc lưỡi:

“Tao chặt dây tuôn tấm lều xuống ghe. Để đó nó cản gió, ghe đi không nổi…”

“Cũng được, đỡ được một chút.”

Chí chặt dây cột lều, tấm lều tuôn xuống, thòng một góc xuống nước, ba bốn thằng xúm lại.

Trời chớp càng lúc càng nhiều, và mây giăng càng lúc càng lên cao.

“Choàng dây rút qua “con lơn” đàng trước, kéo cái đầu. Còn bao nhiêu đứa ra quăng bỏ đá hầm lái đi…”

Thêm mười lăm phút lăng xăng cũng không đi tới đâu. Dưới nước còn lại hai ba đứa đạp neo, mấy thằng khác ngồi bên be run lập cập.

Gió mạnh rồi, nước lại mạnh thêm. Tình trạng xem ra vẫn y như trước. Thằng Triều chốc chốc trả số rút, gài ga chạy tới, rồi lại chạy lui, chốc chốc gài số rút. Nó cố, trong khi không mấy hy vọng. Thanh gục đầu, nhắm mắt lại.

“Gió ngược nước… Buồm nước!”

Thanh nhảy dựng lên. Buồm nước, danh từ này anh đọc ở đâu một lần trong câu chuyện của Bình Nguyên Lộc. Anh cố nghĩ thật nhanh về hình ảnh một cái buồm nước trong hoàn cảnh của mình hiện tại.

“Soạn cho đường dây neo, Chí!”

Thanh hét mấy đứa khênh nắp hầm số ba ra be, kê một đầu cao lên. Lạy Trời lần này!

Ba bốn sải tay dây, chặt, hai ba sợi… Thanh luồn qua mặt dưới nắp hầm, quấn quanh những đầu đinh khóa sẵn một vòng, lòn ra trước thành gút lại.

“Làm lèo bốn, để ngược nắp hầm như vầy cho nó bọc nước nè Chí, thả xuống nước, như thả diều…”

“Được không? Làm thêm một cái đàng trước nữa nghe.”

“Khoan,” Thanh nói. “Tao sợ nước cạn quá, nắp hầm không đứng được, nó xếp lèo thì mắc công thêm. Nhanh lên.”

“Ăn thua mầy để lèo cho đúng, nó không xếp.”

“Con diều nước” được thả xuống, lèo không xếp nhưng nắp hầm trôi xéo thành ra không bọc nước mạnh.

“Mình lấy thùng phuy lòn dây làm được à Thanh,” Chí nói. “Nhưng mà nó nổi phều phều…”

“Ừ được, mình có mấy thùng không?”

“Ba bốn cái lận. Mà nó nổi…”

“Mẹ, nổi thì đổ nước vô phân nửa!”

Thêm mười phút nữa. Bây giờ mây đen phủ lên đầu. Sóng chưa đủ sức làm nhúc nhích ghe nhưng đập vào mạng sườn từng lượn mạnh. Mười phút biến cải và thực hiện được, theo Thanh nó là những điều tốt đẹp nhất. Những cái thùng phuy được lấy búa chặt nham nhở chung quanh cột mỗi cái hai vòng lèo và thả xuống nước. Hai ba thằng kéo ngược nắp hầm về sau khi thằng Hòa lội ra chặt bỏ bớt hai lèo. Chí hét:

“Lên ghe hết đi, lên hết đi. Xệ, Triều!”

Triều gài số rút, kéo ga. Ba sợi dây ba cái thùng phuy căng thẳng băng. Thằng Minh Quảng Ngãi la lớn:

“Đi rồi, đi rồi! Sào nghiêng nè…”

Ghe đi từ từ, Triều lái nó về phía phải. Thanh dặn dò mấy đứa bất cứ giá nào cũng phải cố lấy neo cho được, đừng bỏ, còn mấy thùng phuy, chặt dây.

Tới lúc neo trốc rồi, ghe vẫn cứ đi được. Sóng lớn rồi. Thằng Nghiêm vừa đu người lên be thì sóng đánh ngã xuống, hai ba thằng kéo nó.

Chí la ong ỏng: “Còn một thằng, thằng nào?” Nó nắm sợi dây nhỏ còn thòng xuống nước, sợi dây thẳng.

“Thằng Cường,” Nghiêm hổn hển, “chắc nó lội không nổi đâu!”

Văn lại nhẩy xuống, không cột dây bụng. Nó nắm mối dây phăng lần ra. Trời tối mò rồi, nó đạp chân hai ba cái là hết thấy. Lúc này, ghe đi được nhanh hơn trước, rõ ràng nó có chiều hướng đi càng lúc càng xa cồn cát. Càng ra đầu cồn nước càng sâu mà!

Tiếng thằng Văn phất phơ:

“Kéo đi, kéo đi…”

Triều pha đèn về phía đó, chỉ thấy lấp ló cái đầu thằng Văn. Thanh la lớn:

“Có không? Có nó không?”

Ý nó muốn hỏi “thằng Cường đâu.”

Khi thằng Văn nắm được lườn ghe, nó phun phèo phèo:

“Vọp bẻ chắc, nó chìm…”

Văn ngụp nước xốc thằng Cường, ba bốn đứa xúm lại. Thằng nhỏ xụi lơ.

“Không sao đâu, xốc nước cho nó. Đem ra sau đi, Hòa lau mình lấy mền quấn cho nó nghe, xức dầu…”

Thanh trở vô cabine sau khi thằng Cường đã ói nước ra được và tụi Chí lấy neo lên xong.

Trời mưa. Thoát rồi! Thanh bắt đầu cảm thấy khờ khờ trong người. Lần nào cũng vậy, qua một lúc khủng hoảng, anh hay bị “xốc” và nghe lạc lõng quá. Giống như cái đêm bị bão ngoài khơi, sáng ra, lúc bất chợt nhìn thấy hàng đá ngầm xâm xấp mặt nước, giăng trước mặt cách có hai ba phút ghe đi, anh lặng người và biết lúc đó, nước mắt đang chảy xuống má. Suốt hôm đó, anh chỉ muốn nằm vùi. Chuyến đi có nhiều nguy hiểm đã được tiên liệu rồi nhưng sao thấy ghê quá!

“Đi trở vô nghe Thanh?” Triều hỏi.

“Chớ đi đâu nữa! Xuôi theo sóng, nửa tiếng vô tới chỗ êm sóng rồi. Ở đây lạng quạng qua không khỏi cồn cát.”

Thằng Chí xách cây dao yếm trở vào cabine, nó cằn nhằn:

“Đ. má, dao lụt nhầy. Chặt một ngàn cái mới đứt được sợi dây.”

“Ba sợi! Ba ngàn cái!” Triều cười.

“Mình vô hả Thanh?” Chí hỏi.

“Ừ!” Anh quay qua Triều: “Chạy về khoảng 350 thì đúng đó Triều. Chừng mười lăm phút, pha đèn vô kinh… Lâu lâu pha thử một cái…”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (13)

VÕ HOÀNG

Gần ba mươi tiếng đồng hồ chạy ở 165, chắc tới tối thế nào cũng lọt vô vịnh Djakarta. Thanh định làm gì cũng phải đậu ngủ chờ tới sáng mới vô trong được, “không biết có cái gì ở trỏng!”

Khoảng năm giờ chiều thì mọi người cùng lúc nhìn thấy hai chấm đen mờ mờ ở hai bên mũi ghe. Thằng Triều bấm còi hụ vang vang, la lớn:

“Đ. mẹ, thằng Thanh hay thiệt. Đi ngay phóc vô vịnh, không chịch một mắt me.”

Thanh không dám lạc quan như nó mặc dầu anh vẫn tin là mình đi đúng. Buổi chiều, trời trong vắt mà ở trước mặt, một thứ sương mờ giăng tràn phủ dài sát nước chụp lên những dãy đất chập chùng không thấy gì khác nữa. Theo anh, đó là loại sương mù bốc lên từ một thành phố đông người.

Hồi trưa, nghe thằng Chí càu nhàu chuyện gì đó thì Thanh thức giấc. Hỏi ra mới hay thằng Nghiêm giao lái lại cho Minh Quảng Ngãi, nó dặn dò chạy theo 165. Thằng nhỏ nghe ba chớp ba nhoáng cứ để 185 mà chạy, tới chừng thẳng Chí hay được, chiếc ghe đã chạy như thế gần hai tiếng đồng hồ. Thanh dậy, hỏi lại cặn kẽ. “Hai tiếng đồng hồ tuy không bao xa, nhưng muốn chạy thật đúng hai tiếng đồng hồ thì quả là lạc hơi xa.” Anh tính lại đoạn đường lạc và đổi hướng.

Bây giờ là sáu bẩy giờ chiều. Vụng nước nằm lọt trong vịnh Djakarta êm phẳng mặt. Thỉnh thoảng, bọn Thanh thấy được vài cánh buồm ở xa xa.

“Kỳ há Thanh,” Triều nói. “Xứ này mỏ dầu hỏa tùm lum mà dân thì đi bằng buồm không.”

“Ờ. Dân Nam Dương nghèo, nghèo hơn Việt Nam mình nhiều. Mầy xem cho kỹ, chút nữa có bóng tối, nếu hai bên mũi đất đều có đèn chớp là mình đi đúng vô vịnh, xem kỹ cho chắc ăn.”

“Chắc rồi, chắc ăn rồi! Cả đảo Java có hai mũi đất này nhô ra cao nhất, mầy không thấy trên bản đồ sao?”

“Thấy, nhưng mầy lấy gì làm chắc? Hồi trưa chạy lạc mấy tiếng đồng hồ rồi.”

“Nghỉ lại hay vô luôn, Thanh?” Chí hỏi.

“Nghỉ! Cửa biển lạ tao không dám vô ban đêm.”

Đàng trước, có mấy thằng đã lo dọn chỗ nằm. Trời còn sáng mà tụi nó đã lo rồi.

“Bữa nay ngủ khỏe thôi. Tao chấp hết thảy, mưa gió, bão cũng được. Cứ xuống hầm máy là ngủ tới sáng.”

Thanh không tiếp lời Triều, mà anh thấy rõ như vậy. Đêm nay là đêm an bình nhất trong gần nửa đoạn đường đi. “Hôm nay là ngày 17, mình rời Songkhla như vậy là gần mười ngày. Phượng đã lên Bangkok chưa?”

Bọn Thanh bỏ neo ở một góc phía trái của cửa khẩu Djakarta. Ở đó, Thanh nghĩ, mình không làm cản trở lối ra vào của tàu bè mà không ai nhìn thấy mình. Vả lại, gió mùa ban đêm dù có thổi mạnh đến thế nào cũng phải nhường dãy núi nhỏ chạy dài từ tuốt bên trong ra tới mũi đèn.

Đêm. Trời càng tối càng thấy nhiều đèn. Thứ đèn giăng hàng của tàu buôn buổi chiều bị sương mù làm chìm lỉm hình dáng với dãy đất xám xịt, xa lạ. Thanh kéo tấm chăn leo lên nóc cabine, nằm nghiêng người nhìn ngược ra biển. Có vài cánh buồm xuôi thong thả dò đường vào cửa. Xứ sở này có vẻ an bình quá!

Thanh chợt nghĩ đến Songkhla. Giờ này là giờ người ta thăm viếng nhau và ngồi đấu láo. Mười ngày qua đã có thêm bao nhiêu chiếc ghe nhập trại? Và khoảnh đất nhỏ đã phải chứa thêm bao nhiêu con người trong đó?

Thanh thở nhè nhẹ. Anh dang thẳng hai cánh tay, nằm ngửa mặt nhìn lên trời. Cái lúc trời đất giao nhau này chỉ là cái lúc để làm con người ta moi móc những uẩn khúc bị che kín trong hồn ra sống với nó. Đối với Thanh, cái uẩn khúc kỳ lạ mà Thanh nghĩ rằng nó sẽ còn mãi trong con người anh là những cảnh tượng sống xem ra có vẻ gượng ép, giả tạo nhưng thật sự nó được sắp đặt trước hay ít nhất, nó cũng không có chút gì gượng ép, giả tạo khi con người ta bắt đầu nhập cuộc.

Anh nghĩ tới mình, anh nghĩ tới những người thân và cảm thấy ai cũng vậy, mọi người đều được Trời Phật đặc ân ban phát cho cái tính khí đáng giá, cái tính khí dễ dàng hòa nhập với tất cả mọi sự thay đổi một cách gần như tự nhiên.

Ở bên nhà, ở bên đảo, người ta cằn nhằn chút đỉnh về việc nhà nước nắm quyền quản lý hết tất cả ghe thuyền, mọi thu hoạch và di chuyển của dân đánh cá đều phải qua sự kiểm soát của nhà nước. Rồi không lâu, người ta xoay qua việc rẫy bái, tất cả mọi câu chuyện đều hướng về đó, tự nhiên như những người lính nói đến một trận đánh có mình tham dự và nói đến số lương mình sẽ lãnh được trong tháng tới, không một chút mánh lới trong câu chuyện. Thanh cố nghĩ rằng, người ta đã sống trong quá nhiều sự thay đổi, có thay đổi nữa thì thật sự cũng chỉ là những thay đổi… Nhưng cái uẩn khúc nằm trong đó chỉ có thấy được khi nào Thanh nghe nói tới, chính những con người dễ dàng hòa nhập với sự thay đổi đó, họ tự làm một việc thay đổi cho chính họ.

“Thì mình cũng vậy!” Nếu không vậy, sao có ngày hôm nay, một thân một mình nơi cái đất nước xa lạ này?

Ở trại, những ngày đầu mới tới, Thanh thích nhất được nghe bất cứ ai kể lại những diễn tiến trong chuyến đi của họ. “Ghe tui nhỏ xíu mà chứa tất cả trăm mạng, con nít nó khóc tùm lum, thằng công an lấy vàng xong rồi mà còn hăm he đủ thứ, rồi máy hư hết một bloc, tụi Thái Lan lùa hết mọi người ra đàng trước…” Mới đầu, anh còn góp ý và chủ tâm ghi nhớ những biến động có vẻ nặng ký nhất. Sau một dạo, hình như chỉ được một hay hai tuần lễ, anh tự dưng sợ phải nghe tiếp bởi vì kết cuộc nào cũng đi tới một cuộc sống kỳ cục mà anh và mọi người đang sống, mặc dầu người kể không bao giờ đề cập tới.

Ở đó, người ta cãi nhau và đánh đấm nhau chỉ vì chia chác cho nhau không hợp lý. Ở đó, người ta ngậm ngùi nhường nhịn nhau những thiếu thốn, người ta cam tâm lường gạt nhau bởi những người có khi cả đời chưa biết lường gạt bao giờ, và người ta bắt đầu thương yêu thứ mà trước kia, nó là những thứ đáng ghét.

Có một điều, cho tới bây giờ Thanh vẫn chưa dám cho mình là nghĩ đúng, con người ta sẽ mất nhau kể từ khi rời bỏ cuộc sống ở đó, cuộc sống của những con người thường xuyên bị mất mát, thứ này hay thứ khác. Thanh nhớ dập dồn những ngày tháng ở Songkhla. Có khi anh nghĩ, mình không nên rời khỏi nơi đó, tới bao giờ cũng được.

Đêm tối thật rồi. Sương lạnh phủ trùm VNKG 0042, đàng trước mấy thằng vừa choàng chăn vừa ngồi đấu láo. Dưới cabine có tiếng thằng Chí chưởi thề và vài tiếng cãi cọ. Nó phát giác hai gói thuốc lá của ai đó giấu dưới hầm máy, trong một xách tay Air Việt Nam. Hỏi, không thằng nào nhận. Cuối cùng, biết chắc chắn là xách tay của thằng Thông, nó nắm ngực thằng nhỏ, cho hai thoi vào mặt. “Cái bình hơi” thương em, thành ra gây gỗ. Thanh lắng nghe:

“Sao mới đầu hỏi, không chịu nhận?” Tiếng thằng Chí chậm rãi.

“Nó nhỏ, nó sợ. Anh còn đánh nó làm gì.”

“Tui nói cho chị nghe. Trên ghe này, đi đường lạ coi như sống chết có nhau. Chị không thấy chiều qua tới giờ có ai còn hút thuốc không. Nó giấu như vậy, chị cho là phải chắc!”

“Nó bậy, nó bậy tui công nhận. Mà đánh như vậy còn gì thằng nhỏ.” “Cái bình hơi” đã khóc thành tiếng.

Thẳng Chí gằn giọng:

“Nó có phước lắm nên tui chưa bẻ cái mặt nó ngược ra đằng sau, chị biết không. Gặp thằng Văn, nó đạp cho mà gãy cổ chớ không phải chỉ có hai thoi đâu.”

“Cái bình hơi” không nói nữa, chỉ khóa rấm rức. Thanh thấy thằng Chí làm đúng, nhưng hơi nặng tay. “Nói cho thằng nhỏ biết một lần chắc cũng đủ rồi.” Đàng trước nghe động, tụi kia lục tục kéo vô:

“Oánh thấy mẹ! Thằng nào?” Tiếng thằng Văn.

“Thôi đủ rồi,” Chí nói. “Thằng Thông, tao bắt được, nó còn nói xóc họng. Nó biểu thuốc này của cảnh sát Singapore cho nó. Đ. má!”

Mấy đứa kia im thim thít. Thanh tung chăn nhảy xuống, anh lo thằng Văn làm ẩu thêm nữa.

Vậy mà cũng không kịp. Văn nhảy phóc xuống hầm máy, chỗ thằng Thông đang ngồi ôm mặt nhăn nhó, anh nghe vài cái ịch đụi. Thanh thòng đầu xuống hầm hét:

“Thôi, Văn. Đ. má, sao lại đánh hoài vậy?”

“Cho nó chết mẹ luôn, anh Thanh. Thằng nào cũng vậy hết. Tui ghét nhứt thứ này.”

Ngừng một chút, nó buông thõng:

“Đ. mẹ. Xả láng mà còn thủ!”

“Tao tưởng chuyện như vậy thì tụi bây nói với nhau là đủ, làm gì tới đấm đá,” Thanh đứng lên.

Thằng Thông đứng gượng dậy, đi qua mặt Văn và leo lên cabine, một bên mặt sưng húp. “Cái bình hơi” vừa nhìn thấy thì khóc to hơn. Thằng Văn leo theo:

“Bà Nhung, bà dạy lại nó. Tui cho bà hay, không phải tui ghét gì nó, mà thằng nào cũng vậy hết. Kiểu đó mà sống với tui, tui đánh từ sáng tới tối, mệt thì nghỉ, hết mệt đánh tiếp.”

Tội nghiệp “cái bình hơi.” Cô biết lỗi của thằng em gây ra và cái lỗi này đụng chạm với hết cả mọi người trên ghe, thành ra xoay qua mắng thằng em:

“Mầy thấy không! Làm như vậy, người ta không đánh sao được?”

Ai cũng nín thinh. Hình như mọi người đều thông cảm với cái đau xót của cô. Thằng Chí buông nhẹ, sau một cái thở dài và vừa quay đi:

“Chớ gì nữa! Chơi như vậy thì chơi với nhau đâu có tới tết.”

Thanh nắm vai thằng Thông, kéo lại:

“Chị Nhung lấy muối đắp mặt cho nó.” Anh quay qua ngó thẳng mặt Thông: “Còn mầy, liệu mà sống chung với nhau cho có tình, gặp khổ người ta không bỏ. Cái điệu này, bạn bè không đánh mầy thì trời cũng đánh mầy, mầy biết không?”

Thằng Thông im lặng, chịu đựng. Thanh hét mấy thằng kia đi nằm. “Mai sáng còn nhiều việc phải làm.” Anh leo trở lên nóc cabine trong khi bên dưới, thằng Triều mở radio rà đài, một thứ nhạc xa lạ thoáng phát ra, bất chợt nghe được thì nghĩ ngay đến việc mình đang ở một nơi cũng xa lạ, quá xa lạ. Thanh quên luôn cả việc có lần thằng Văn giấu lại mấy gói thuốc lá.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (14)

VÕ HOÀNG

Djakarta, Chúa Nhật 19-3-78.

Trần,

Chắc mầy ngạc nhiên khi nhận được thơ tao viết từ Djakarta. Lại trách chớ gì!

Tao cũng biết, bên đó mầy lo xong mọi thủ tục cần thiết cho tao. Đáng lẽ tao nên an tâm ở lại Songkhla và chờ, chờ hoài cho đến khi được rời khỏi nơi đó!

Làm sao tao nói để mầy hiểu được lý do tao phải bỏ đi trước khi một chương trình nhân đạo (riêng cho tao) hoàn tất, ngoài cái việc tao tự thú với mầy: Cuộc đời những thằng như tụi mình, làm được điều gì mình thích làm, đã là một hạnh phúc rồi, còn chờ gì nữa?

Thì cũng như mầy vậy thôi! Tụi mình mà có bôn ba lắm, đều luôn luôn thấy rằng mình đã lầm. Tội gì không lầm những điều mình thích lầm.

Có điều này, Trần à. Hai tháng rưỡi sống qua năm sáu trại giam của tụi Thái trước khi được đưa tới Songkhla, tao sống với cái hy vọng trọn vẹn lúc quay lưng bỏ đảo, cái hy vọng của những ngày cuối tháng 5 bảy lăm, cái hy vọng trong những chuyến xe phủ ngập bụi đỏ dọc con lộ đất cặp chân núi Dài, cái hy vọng trên yên chiếc xe đạp cứ vài phút là sút sên một lần, đạp từ chợ Long Hoa về Tòa Thánh tìm bạn bè… Tới trại, hai ngày, tao biết ngay, biết rõ, biết đúng là mình “binh trật” thêm lần nữa. Mà lần này, khó có thuốc chữa, khó gỡ.

Hình như tao chỉ viết cho mầy một lá thơ mấy ngày đầu tới trại và cũng chỉ là lý lịch, giấy tờ. Tao nghĩ mai mốt gặp nhau, thiếu gì lúc nói. Bây giờ, trên đường đi Úc Đại Lợi. Tao biết tao phải tới Úc và còn lâu lắm mới gặp được mầy. Chiều nay rảnh rỗi nhưng không an trong lòng được, nói chuyện với mầy nhiều nhiều vậy.

Trong hai ngày đầu tới trại, đọc thoáng qua một loạt những báo chí mới cũ được gởi tới từ “các quốc gia thứ ba,” tao chưng hửng và khám phá ra rằng: sao cuộc đời mình đã đụng chạm không ít những thực tế tàn bạo, bạc bẽo, mà vẫn không chừa được cái thói lý tưởng hoá cuộc sống. Thỉnh thoảng, bạn bè hay công việc trước mắt nhắc cho một tiếng, mới biết được rằng hôm qua mình “cải lương” quá.

Nhưng tụi mình làm gì khác hơn được, Trần? Đúng hơn, tụi mình không dám làm những điều khác hơn. Làm để chết à? Bao nhiêu con người đã tự tử bỏ cuộc đời chỉ vì đã lỡ làm những điều khác hơn cái hy vọng và khám phá ra mình hết hy vọng?

Không vậy sao thằng Hà thi rớt tú tài mà học đòi viết cương lĩnh, con nhà Huê lúc nào cũng sợ ma mà soạn được lời “hiệu triệu” kêu gọi “đồng bào tiếp tay khi lực lượng kháng chiến nổi dậy làm trách nhiệm cứu nước,” rồi Năm Đình nữa, ai hù sau lưng thì máu xâm nổi dậy, sùi bọt mép, giựt kinh phong, mà hiên ngang “tuôn một đống” truyền đơn trước cổng ủy ban nhân dân xã… Người ta sống được nhờ cái hy vọng, dù nhỏ, dù mỏng manh, nhưng là cái hy vọng trong cái hết hy vọng, Trần à.

Ở đây, bây giờ, tao vẫn hy vọng mình lầm thêm nữa để còn được yên tâm mà ăn cơm, yên tâm mà hút thuốc, chớ thiệt tình, cố gắng cho là mình đúng thì chỉ có bỏ ăn, bỏ hút, còn sống làm sao hết tháng ngày. Số là, theo tao cảm nhận được, gần ba năm nay, những người mà lúc trước mình gọi là “lực lượng ở ngoài” nghỉ ngơi lấy sức và đang có hiện tượng xâu xé nhau.

Tính thử xem, bởi vì mình không nên phủ nhận thực tại nghe Trần, tình trạng xâu xé nhau chắc chắn phải có. Trước hết, tao với mầy cùng một lượt hy vọng tình trạng này không kéo dài lâu lắm, có nghĩa là không kéo dài mãi mãi. Thì cho là mười năm, hai chục năm đi, miễn là đừng tới thời gian mà bà con mình còn ở lại “tự giải phóng cuộc đời” của họ, bên này mình sống với cái hy vọng nào nữa. Vậy ra, không phải buồn năm mười phút, mà là buồn lâu, buồn dài, buồn mấy chục năm bởi vì tao xét kỹ rồi, cỡ tụi mình, chỉ có đứng nhìn người ta xâu xé nhau đừng nói tới chuyện có mình trong những xâu xé đó và dĩ nhiên đừng nghĩ tới chuyện

Có mình trong bất cứ một “hành vi tạo sự kết hợp” nào cả. Dính vào, mang tiếng “thằng láu cá” ngay.

Như mầy đó, “chưa bao giờ tao kể người ta nghe về những chuyện làm của tụi mình, vì ở đây, người ta đang lo công việc quy mô hơn nhiều, và lãnh đạo cũng vậy, có tiếng tăm không hà…” Tao tủi cho mầy, tủi cho tao.

Không tủi sao được, Trần. Thiếu điều tao lạy tụi cảnh sát Thái Lan khi biết được tụi nó lấy cái xách tay của tao trong đó có hai cái bản đồ, một của Bộ chỉ huy huyện đội và một là các vị trí của gần trăm khẩu 106 phòng Duyên tụi Biên phòng đóng dọc theo bờ đảo. Không tủi sao được khi tao dặn dò ông già những chỗ có thể tản cư vào đó khi mà “tụi con theo lực lượng ở ngoài đổ quân về” một cách kỹ lưỡng và được lặp lại thêm lần cuối trước khi xuống núi.

Mình lầm, lầm ở những cái đáng lầm quá thì còn nói làm sao được với nhau cho hết lời hả Trần? Thằng Hà, con Huệ và nguyên đám thằng Vọng ở Lemsing chắc cũng tan hàng, để khỏi phải nhìn nhau hằng ngày, mà tủi thôi!

Tao chỉ muốn ngừng lại ở đây vì trong lòng không yên, nói nhiều nói bậy. Về chuyến đi của tao, mầy cũng chỉ nên biết rằng tao sẽ tới Úc, chắc chắn sẽ tới Úc, và không có gì phải kể lể dài dòng.

Còn cuộc sống sẽ như thế nào thì mầy qua trước gần nửa năm, chắc biết rõ hơn tao. Mỹ cũng vậy, Úc cũng vậy, không phải là Việt Nam thì ở đâu cũng vậy.

Dầu sao, tới Úc, mầy cũng có tin tao.

Thôi nghe, thương,

Thanh

Thanh xấp lá thơ lại, ngồi thừ ra một lúc, chưa biết phải làm gì nữa. Đàng cuối dãy nhà, một nhóm người ngồi chung quanh những cái thùng giấy kê sát lại làm bàn, họ uống trà và ca hát.

“Ở đây, đỡ khổ hơn các trại tỵ nạn khác nhiều,” Thanh nghĩ. Dầu sao thì sự đối đãi của chánh phủ Nam Dương đối với người Việt tỵ nạn cũng có ít nhiều tiêu biểu cho lòng nhân đạo hoặc được kiểm soát bởi những con người nhân đạo.

Mấy đứa em ở chợ về, tụi nó đem vào trại đủ thứ đồ vật và Thanh hiểu là sắp sửa có một bữa tiệc không nhỏ. Canh, thằng em con chú con bác vừa cười khà khà vừa nói:

“Anh Thanh nằm nghỉ một lát lấy sức đi, đêm nay mình phải vất vả lắm đó.”

“Định làm gì nữa?” Thanh giả vờ.

“Nhậu, nhậu cho đã thèm. Lâu nay tụi này cũng ít uống rượu. Nhưng bữa nay có anh mà, trời đất bao la mà gặp lại nhau, không nhậu, còn kêu lính bắt chắc!”

Cô em gái thêm vào:

“Ở đây giống xứ mình lắm, anh Thanh. Mấy ông nhậu đã rồi đi lang thang ngoài đường không ai nói gì hết, anh đừng lo.”

“Thôi,” thằng Canh ngắt lời. “Nhắc tới hoài, xứ mình, xứ mình. Để người ta vui cho trọn.”

Giữa đường lang bạt, anh em gặp nhau, Thanh quên hẳn đi mình đã trải qua nửa năm trời nhớ quay quắt những hình ảnh thân yêu gói ghém. Chiều hôm trước, ghé vào bến, Thanh nhìn thấy ngay hình dáng một chiếc ghe quen thuộc, loại ghe đánh lưới rút mà chỉ ở Phú Quốc mới có. Thằng Văn la lớn:

“Ghe ông Cả Bảy, anh Thanh. Dám có bà con mình lắm nghe!”

“Ừ, cũng hy vọng vậy. Mà chiếc này chắc mới qua, ở Songkhla mình chưa hay tin.”

Thanh gặp ông Chệt Lỳ, chủ tiệm tạp hóa dưới chân cầu Nguyễn Trung Trực, ngồi một đống trước mũi ghe. Anh bắt loa tay hét lớn:

“Ông Lỳ, ông Lỳ, nhớ tui không? Thanh! Thanh!”

Ông Chệt che mắt, nhìn lâu lắm. Rồi lần lượt ông nhìn ra đủ thứ thằng, từ Chí, Hòa, Văn… Ông la lên:

“Hê, hê, tụi mầy. Sao còn ở đây?”

“Tụi tui đi Úc,” Thanh đáp.

“Đi Úc? Mầy đi mấy tháng mà mới có tới đây?”

Ông Chệt ngạc nhiên cũng phải, nhưng chưa tiện giải thích vội, Thanh hỏi:

“Ai đi chiếc ghe đó? Bị cướp hả?”

“Con ông Cả Bảy, đám con ông Đực… Đông lắm, bốn năm chục người. Tụi nó ở trại, tao giữ ghe mình ênh!”

Gặp người đồng hương, cả đám tụi thằng Văn, thằng Chí, cả chục đứa phóng tuốt lên bờ chạy ngược về ghe ông Cả lúc VNKG 0042 vừa cập bến. Đàng này, Triều quăng dây cho một người Việt Nam mặc quần sọt đứng trên chiếc tàu sắt, vừa hỏi:

“Mình đi Úc, tụi nó cho đi không anh?”

“Đi Úc hả, cho chớ! Nó cho dầu.”

Thanh tắt máy, đi lần ra đàng trước:

“Tụi này có làm khó dễ gì mình không anh?”

“Bộ chỉ huy hải quân của tụi nó ở trên đó.” Anh thanh niên chỉ tay lên bờ. “Tụi này dễ ẹc hà. Hai bữa trước có một chiếc tàu ghé vô đây xin dầu đi Úc. Phải mấy anh tới sớm, đi chung luôn rồi, chiếc đó lớn như tàu hạm.”

Thanh yên tâm, và anh càng yên tâm hơn nữa khi tối hôm đó, Canh, nhỏ Thảo và cả chục người đồng hương theo chệt Lỳ xuống bến.

Con nhỏ Thảo bô bô:

“Ở đây dễ ẹc, tụi em muốn đi đâu thì đi. Mà sao nghe tin anh Thanh ở trại Songkhla, bữa nay gặp ở đây?”

“Anh lấy ghe đi Úc, ở trại khổ quá. Hồi em đi có ghé vô nhà bác không? Bác khỏe không?”

“Một tuần trước khi tụi em đi.”

Cả ghe nhôn nhao hỏi tin gia đình. Tụi kia khác xứ cũng rán hỏi này hỏi nọ, may thì biết thêm được chút tin. Thằng Minh trọ trẹ:

“Anh có biết trong trại ai người Quảng Ngãi không?”

Thằng “bộ đội”:

“Có ai người Xẻo Rô không?”

Hỏi, rồi biết chút ít, mập mờ, tối lại thì gần hai chục mạng chạy chọt “kiếm cho có tiền” kéo nhau theo hết vào trại. Thanh giữ Canh và hai ba thằng khác lại, “nói chuyện cho vui” và hỏi thêm tin nhà. Tối nay thì đến lượt anh ngủ trại. Nhỏ Thảo nói:

“Anh vô trại ngủ, có mùng. Ở đây giống như xứ mình, đêm, muỗi nó bay tối trời tối đất.”

Mới tới nửa tháng, anh em tụi nó sắm sửa đủ thứ đồ đạc nấu nướng mặc dầu phần nuôi ăn, người Nam Dương lo liệu cho hết.

“Đồ ăn tụi nó nấu kỳ cục lắm, Canh nói. Ba bốn thứ đổ vô hầm bà làng rồi tưới lên cơm.”

Nhỏ Thảo tiếp:

“Giống như cho heo ăn!”

Đêm nay Thanh biết tụi nhỏ nấu canh chua. Trong mấy cái túi giấy, anh thấy có cà chua và hai trái khóm. Thằng Canh tặc lưỡi:

“Cá hồng này, bên mình bán rẻ rề. Ở đây tụi nó ‘chặt’ bốn năm trăm đồng một con nhỏ xíu.”

“Tiền Nam Dương mà,” nhỏ Thảo dài giọng. “Tiền gì mà giống in toa thuốc Bắc!”

“Thì tiền Sài Gòn mình hồi trước cũng vậy!” Thanh nói.

“Đỡ hơn chứ anh!”

“Ừ, thì đỡ hơn một chút.”

Có không khí gia đình, Thanh cảm thấy vui vui, anh quên hết mọi thứ lo âu chất chứa lâu nay. “Lo quá cũng mệt, mai mới có việc phải làm, phải nghĩ.” Thanh hỏi Nhỏ Thảo:

“Bộ tính ở luôn đây sao mà sắm soong chảo đủ thứ hết vậy?”

“Hai ba chục đứa hùn tiền lại đó anh. Ở trại này, người nào đi sớm nhất là tám tháng, còn thường thường thì một năm, một năm rưỡi, ăn đồ tụi nó sống sao nổi anh.”

“Mấy đứa có dám xuống ghe với anh đi Úc không?”

“Thôi, xin anh. Hết một tuần lễ trên biển, em gần muốn chết, đâu dám đi nữa. Em cũng muốn nói với anh là ở lại đây đi, lần lần người ta làm giấy tờ, bốc đi bằng máy bay cho sướng, tội tình gì…”

“Ý, đâu được. Anh vượt biển lần này là lấy kinh nghiệm, mai mốt đổ bộ về nước mà!”

“Thật không đó!” nhỏ Thảo nhướng mắt.

Thanh cũng không biết là mình nói thật hay nói chơi. Vì thật tình có lần anh nghĩ như vậy, mà rồi đôi khi, anh nhận ra điều này có vẻ xa vời và cải lương quá. Lỡ nói ra, anh nghe một ít xót xa thoáng qua ngực.

“Hơn nữa,” thằng Canh nói, “tụi em phải đi Mỹ chớ đâu có đi Úc, bên Mỹ có anh Mộc mà. Ảnh sẽ làm giấy bảo lãnh tụi em.”

“Ờ, ờ, nhắc mới nhớ. Hai đứa có viết thơ cho Mộc, nói là anh đi Úc, khỏi phải tiếp tục lo giấy tờ cho anh. Chắc nó gởi thơ về Songkhla cho anh, thì anh đi rồi. Hơn mười ngày nay…”

Nhỏ Thảo hất hất cái mặt:

“Mà sao anh lại nhất định đi Úc? Có bồ ở bển hả? Hay là dưới ghe? Em thấy có ba bốn cô…”

Nó ngưng một lát, buông nhỏ:

“Mà xấu ỉnh!”

“Mầy thì ai cũng chê,” Canh nói. “Mai tao ra chợ rán tìm mua cho được cái kính soi mặt, mầy biết liền.”

“Xí, con này cũng đỡ, chớ bộ.”

“Ừ, đỡ. Tao có nghe nói!”

Thanh cười:

“Thôi, tụi bây như chó với mèo. Nói vậy chớ có ai đâu. Anh già thấy mồ rồi.”

“Anh già!” nhỏ Thảo trề môi. “Anh già thì chắc tụi em cũng gần chống gậy. Có bồ thì nói có bồ, ai cười em thoi vô mặt cho anh coi. Con này có nghề chút đỉnh mà!”

Bốn năm đứa nữa kéo về, rồi thì đủ thứ câu chuyện được đem ra. Thằng Canh phân công việc đâu ra đó. Còn phải canh cửa, không có “tụi Nam Dương xuống thấy xài điện lậu thì phiền lắm.” Nó vỗ vai nhỏ Thảo:

“Đi ngoại giao, mượn thêm ít đôi đũa nữa, mình đâu có đủ cho từng này người.”

“Lại sai biểu. Chốc nữa mà.”

“Đi bây giờ đi!” Canh nhăn mặt. “Tại vì phải mượn thêm cái rổ đựng rau. Mầy lại chị Thuận, tao thấy chị có cái rổ xanh to lắm.”

Nhỏ Thảo đứng lên. Canh quay qua Thanh:

“Bên này đi chợ, hên lắm mới thấy bán đũa. Đũa Tàu không hà. Tụi Nam Dương ăn bằng tay, anh Thanh, tụi nó bốc bằng tay mà ăn.”

Một thằng khác châm thêm:

“Đi cầu xong cũng lấy tay mà rửa.”

Nhỏ Thảo đi xa rồi cũng còn cố nói lớn tiếng:

“Vô duyên! Vô duyên…”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (15)

VÕ HOÀNG

Khi Thanh gặp lại viên Đại úy Hải quân, anh đưa cho ông ta xem tập bản đồ anh tìm được ở chợ Djakarta. Ông nói:

“Mầy thấy nó thế nào?”

“Tàm tạm, nhưng tao muốn có một cái lớn hơn.”

Viên Đại úy này được cấp trên chỉ thị phải liên hệ trực tiếp và giúp đỡ những người dưới ghe VNKG 0042. May cho bọn Thanh là ông ta cởi mở và tốt bụng. Ngay buổi chiều, lúc bọn anh mới vào, ông ta ở hàng giờ dưới ghe, ghi chép đủ thứ. Cái khổ nhất của Thanh là ông ta không nói được tiếng Anh mà nhất định phải nói tiếng Tây. Thì thôi vậy! “Chơi luôn.” Thanh biết rằng phải chờ tới ngày thứ hai mới có thể tìm được người Việt Nam biết nhiều tiếng Tây và nhờ họ, anh đành đem thứ Tây bồi ấm ớ ra xài tạm. “Thì quơ tay quơ chân phụ thêm vào, thứ gì mà không xong.” Anh đùa với thằng Chí:

“Từ ngày rời Việt Nam, nói chuyện với người ngoại quốc cũng nhiều, tay chân nở nang thêm.”

“Mầy còn rán, chớ tao thì khỏi nói! Muốn làm gì thì làm. Chịu hay không kệ mẹ tụi nó.”

Thanh nghĩ, ở cái thế của mình, không rán là không xong.

“Tao có thể giúp mầy, nhưng không chắc,” viên Đại úy nói. “Chiều nay, ba giờ tao sẽ gặp mầy nữa.”

Mười sáu phuy dầu vị chi là ba ngàn hai trăm lít cho chặng đường còn lại đã được thỏa mãn ngay sáng ngày chủ nhật. Thanh tuy nóng lòng nhưng cũng phải chờ đến hết ngày thứ hai, Bộ Xã Hội Nam Dương và đoàn Lãnh Sự Úc Đại Lợi xuống tận bến, xuống tận ghe để xác nhận và định lượng mức độ an toàn tối thiểu cho chiếc ghe vượt biển lớn. Thanh xúc động nghĩ tới bạn bè, có đứa phải chèo tay chiếc xuồng bơi vượt vịnh Thái Lan, vùng biển nước nguy hiểm không thua bất cứ vùng biển nào trên trái đất mà mức độ an toàn tối thiểu của chiếc xuồng chỉ có thể đề cập tới ở trong sông.

Cabine đương nhiên được đóng sửa lại, và nhất là cái hải bàn lớn được đóng dính xuống tấm ván lớn trước vô lăng. Nó là quà tặng của một chiếc ghe đánh cá Nha Trang tới Djakarta hồi đầu năm. Thanh vuốt ve giòng chữ khắc chìm dưới chân hải bàn “Việt Nam Cộng Hòa – Ty Ngư Nghiệp Khánh Hòa” mà thấy bùi ngùi.

Đàng trước, Canh và mấy thằng nữa đang hì hục khâu kết lá cờ trắng lớn và dự định vẽ lên đó ba chữ S.O.S. bằng sơn đỏ. Trên nóc cabine, thằng Hòa phụ đóng lại tấm lều che mưa với Triều, nó hát vang vang:

“Chiều nay ra khơi, thoáng thấy mắt em nhuốm buồn. Đời anh là gió sương…”

Thằng Triều cũng nổi hứng, vung búa đóng đinh theo điệu nhạc. Ở tàu sắt bên kia, một người hỏi lớn:

“Mấy anh đi có gặp sóng gió gì lớn lắm không?”

“Làm gì mà khỏi có,” Triều ngưng búa trả lời. “Cách đây bốn năm ngày bị một trận bão, tưởng đã về chầu Bà Thủy rồi đó! Anh không thấy cabine tụi tui tả tơi như thế này sao?”

“Xui cho mấy anh, hai hôm trước có chiếc Vàm Cỏ ghé qua đây xin dầu đi Úc, trên ghe gần hai trăm người.”

“Không sao! Có mấy ổng, tụi tui cũng đi chiếc này thôi, nhất định tụi tui phải tới Úc bằng chiếc ghe này mà.”

Anh kia cụt hứng, bắt qua chuyện khác;

“Anh người ở đâu?”

“Tui hả? Hòn Mấu, Kiên Giang.”

“Kiên Giang là Rạch Giá đó phải không? Tui có nghe nói, ở đó có nhiều mánh vượt biên lắm mà!”

“Anh đi từ đâu?” Triều hỏi.

“Thanh Hải, Phan Rang. Anh biết Phan Rang không?”

“Biết chớ! Việt Nam, ở đâu mà tui không biết.”

“Thằng nói dóc,” Thanh lầm bầm. “Trốn lính mà ở đâu cũng biết hết, chuyện gì cũng biết hết.” Phải nói, có đi lính mới biết được nhiều chỗ, có đi lính mới biết được nhiều thứ. Thằng Triều có lần than vãn với Thanh: “Tao tiếc là chưa lần nào lên Sài Gòn, chắc Sài Gòn đẹp lắm. Ở lẩn quẩn miền biển, nghe người ta nói chuyện mới hay mình nhà quê.”

Hình như chính thằng Triều cũng biết rằng không nên nói thêm về những địa danh mà thật ra nó không biết gì cả nên lấp liếm:

“Hồi trước tàu Sông Bé có ghé đây không?”

“Tui cũng không biết. Tui mới tới được một tháng nay thôi mà. Nhưng chắc không có đâu.”

Thanh chui ra ngoài, anh góp chuyện:

“Chiếc Vàm Cỏ lớn không anh?”

“Lớn, lớn hơn tàu tui nhiều. Tui có nghe họ bẻ cấp ngược, vòng qua Djakarta và đi thẳng đường dưới, không ghé thêm ở đâu nữa. Tàu lớn mà.”

Thanh cũng nghĩ vậy. Đường trong nguy hiểm về đá ngầm nhưng ngược lại, nó an toàn ít nhất cũng gần nửa đoạn đường, chặng còn lại phải vượt thẳng từ đảo Timor có ba bốn ngày đường. “Ghe mình nhỏ quá, đi đường trường ít bảo đảm.” Anh thở dài:

“Tụi tui vẫn chưa có đủ bản đồ. Hy vọng chút nữa ông Đại úy xuống, có thể có.”

Nói chuyện thêm một hồi, anh thanh niên hứa rằng sẽ hỏi lại chủ tàu và xin giùm cho bọn Thanh mấy chục cái thùng nhựa dùng làm phao cá nhân và đựng nước ngọt. Anh ta nói với sự thành thật:

“Mình qua đây rồi, còn gì có thể giúp nhau được thì giúp. Để tui coi anh còn cần những thứ gì nữa, tui có thể cho được, tui cho. Tàu này để đây rồi cũng bỏ. Còn chuyện này, tui cho anh hay luôn. Anh đừng ghé đảo Timor, ở đó đang có chuyện lộn xộn, người Úc và thổ dân đang gây cấn với nhau. Biết đâu được cái xui xẻo của mình…”

Thanh ghi nhớ lời này. Anh nhảy qua tàu một lúc thì vừa gặp ông chủ tàu cũng vừa xuống.

“Thưa bác, nghe anh Hoài nói lại, bác có thể giúp tụi cháu chút ít những thứ mà xem ra bác đang dư không xài nữa, trong khi tụi cháu đang cần mà không biết phải xin ai.”

“Nói đi, cần thứ gì, để tui liệu.”

Ông chủ lại là người Tàu Chợ Lớn, giọng nói lơ lớ. Thanh phủi đít ngồi bẹp xuống:

“Chẳng hạn như cái neo nhỏ đằng sau lái tàu bác, rồi mấy cái thùng nhựa, mấy đường dây, mấy bình điện…”

Đã đến lúc Thanh không còn phải khách sáo, anh nói hết những cái cần thiết của mình. “Được thì tốt, không được thì thôi, mất mát gì!”

Trước ba giờ chiều thì mọi việc đâu vào đấy, kể cả số lương thực Bộ Xã Hội Nam Dương hứa hẹn cũng đã được đem xuống. Thằng Canh và số bà con ở Phú Quốc chung tiền nhau lại mua thêm nhiều thứ đồ hộp, đồ khô, thuốc hút. Mọi người đều biết chắc chắn VNKG 0042 sẽ khởi hành trước tối hôm nay.

“Tụi em chờ anh Thanh một tuần lễ đầu tháng sau nghe,” nhỏ Thảo nói. “Anh tới nơi đừng quên tụi này đang trông tin anh. Để em nói anh Canh có tấm giấy mười đô Úc, đưa cho anh có mà đánh điện tín, bỏ thơ…”

“Anh có, anh có ít đỉnh tiền Mỹ. Tụi em để đó mà tiêu, đừng có tào lao.”

Con nhỏ nhất định kèo cưa với Canh và lấy tờ giấy bạc nhét vào túi Thanh. Thanh đành ậm ừ:

“Vậy thôi, anh lấy, nhưng anh đổi cho Thảo lại tiền Mỹ. Tụi em ở đây còn lâu, mà tiếp tế chậm thì cũng khổ.”

Thật sự Thanh còn có từng đó. Hồi đi, ở Songkhla anh Hai cho tổng cộng hơn một trăm đô Mỹ, Thanh chưa xài mẻ một đồng. Tới Djakarta anh quyết định chỉ chừa lại mười đồng, còn lại đổi hết ra tiền Nam Dương và mua sắm đủ thứ cần thiết cho chặng đường cuối mà anh nghĩ là không còn ghé ở đâu nữa. Anh móc túi lôi ra tờ giấy bạc, giúi vào tay nhỏ Thảo:

“Cầm lấy! Chuyện tiền bạc đừng để nói nhiều quá, kỳ lắm.”

Nhỏ Thảo hết đường gỡ, cong môi:

“Tiền Mỹ đâu có giá bằng tiền Úc mà anh đổi ngang xương vậy?”

Hai anh em cùng cười.

Thằng Hồng đến hôm nay đã đi đứng vững lại được, nó đề nghị và nhờ thằng Văn phụ chặt chiếc thùng phuy ra làm hai, lấy khúc dưới làm nồi nấu cơm.

“Anh chặt cái nắp làm sao mà đậy được phủ ra ngoài, không có nó lọt vô trong, cũng như không.”

“Được mà,” Văn nói. “Nghề của tao mà!”

Hai ngày cuối tuần ăn ngủ khỏe, hôm nay cả bọn làm việc hăng và nhiều. Thanh bày vẽ đủ thứ chuyện, từ việc đóng hàng cây dọc theo be làm tay vịn, dời đá, đến việc che mưa cho mấy thằng gác mũi, gác lái… Nhỏ Thảo nói:

“Thuyền trưởng có uy ghê hén. Anh Thanh còn thiếu bộ râu quai nón, trông hơi yếu.”

Ông Đại úy xuống, nhưng chỉ đứng đàng trước, đưa tay ngoắc Thanh:

“Mầy theo tao. Tao có bản đồ cho mầy.”

“Cám ơn mầy,” Thanh nói.

Thì ra, ông ta quyết định để Thanh tự tìm và lấy bản đồ trong cả tủ bản đồ các vị trí đóng quân của Hải Quân Nam Dương.

“Tụi này tốt hết chỗ nói.” Có điều Thanh không mấy hài lòng, phải được hải đồ mới có giá. “Làm sao mình biết rõ nơi nào có đá ngầm? Hơi đâu cứ chạy tránh hoài những vùng biển sơn nhạt nhạt.” Thanh hỏi:

“Tao có thể lấy nhiều cái được không?”

“Được, được. Mầy có thể.”

Cuối cùng, viên Đại úy tìm cho Thanh một cuốn băng keo loại trong và phụ anh chấp nối những mảnh bản đồ rời rạc mà Thanh đã chọn và xén lại.

“Nói cho tao biết về đảo Timor đi!”

“Không tốt. Mầy đừng ở lại đó.”

Rồi ông ta nói đủ thứ chuyện về hòn đảo đó. Thanh làm sao nghe cho hết, chỉ biết và nhận ra rằng mình không nên ghé qua hòn đảo đó. Vậy là đoạn đường cuối bị kéo dài ra tới sáu ngày, kể từ khi rời khỏi Sumba, mức cuối của Nam Dương quần đảo.

Xuống lại ghe thì trời đã hết nắng. Cả bọn đã chuẩn bị xong xuôi và ngồi đấu láo cú chót. Nhỏ Thảo đưa cho Thanh một hộp kẹo cao su:.

“Anh nhai cho đỡ buồn, đỡ ghiền thuốc!”

Thanh cầm lấy, anh nhớ tới nhỏ Thu, nhớ tới Phượng.

“Thảo biết địa chỉ trại Songkhla rồi, anh nhờ Thảo viết một lá thơ về ban Đại Diện trại kể cho họ nghe về việc ghe anh có ghé và chuẩn bị đầy đủ mọi thứ trước khi lên đường. Nói là tụi anh rời bến Djakarta ngày thứ hai, bảy giờ chiều.”

“Vậy chớ anh nhờ anh Canh gởi lá thơ về Songkhla, anh nói cái gì?”

“Thì chỉ vắn tắt thôi, anh muốn Thảo kể lại như là viết truyện cho họ đọc. Ở đó buồn lắm.”

“Thảo viết, người ta cười cũng hết buồn. Rồi, hứa!”

Canh nói:

“Tui để cho anh cái áo lính, loại áo khoác dày lắm, đêm ở biển chắc lạnh, anh mặc cho đỡ, không có bị cảm thì phiền.”

Tới giờ cuối, Triều cho hay có sáu người trốn xuống hầm máy và sẽ “đi với mình qua Úc.” Thanh ngẩm nghĩ:

“Người ta đối xử tốt với mình quá, làm như vậy cũng kỳ. Mà không chịu thì cũng kỳ, chẳng lẽ xuống đó la ó và mời họ lên.” Anh nói với Triều:

“Mầy biết chắc tụi nó tốt, không làm điều gì bậy hết chớ? Có gì mình kẹt ghê lắm nghe.”

“Rồi, hai thằng là anh em của thằng Trường, một thằng là bà con gì đó của thằng Minh Quảng Ngãi, ba thằng kia hiền lắm. Tụi nó muốn đi Úc thật mà.”

“Đáng lẽ tụi nó phải nói với tao chớ!”

“Thì tụi nó nhờ tao nói lại. Bây giờ còn kịp cho mầy quyết định.”

Thanh chui xuống hầm máy. Sáu người kia nhớn nhác ngồi dậy.

“Tôi nói thật, mấy anh em cũng nên nói thật. Nếu có anh em nào trong đây làm cái gì phạm luật với người Nam Dương thì thật tình tôi không đồng ý cho đi, vì trách nhiệm là trách nhiệm của tôi.”

Một đứa, trông gương mặt là biết ngay dân miền Trung, tóc dài gần tới vai, có lẽ là bà con gì đó với thằng Minh Quảng Ngãi, ngập ngừng:

“Anh cũng thông cảm cho tụi tui, ở đây quá lâu rồi mà không thấy ai nói chi tới. Tui là anh chú bác với thằng Minh, anh cho tụi tui đi chung tới Úc.”

Thằng Minh nói thêm:

“Ảnh ở đây một năm rưỡi rồi, anh Thanh. Lúc tui đi, má ảnh ở nhà nói là ảnh đang ở Mỹ, viết thơ về. Ai dè ảnh ở đây gởi qua Mỹ, rồi Mỹ mới gởi về.”

Thanh đang suy nghĩ tới trường hợp những người trốn theo ghe đi Úc, nên mặc cho thằng Minh tả oán đủ thứ. Năm đứa kia im lặng không nói gì, tất cả đều có vẻ mệt mỏi, ngồi vật vã đây đó, không màng dầu mỡ vương vãi khắp hầm máy. Anh nghĩ tới nỗi thất vọng của họ nếu bây giờ anh nhất quyết không nhận và mời họ lên. Trong hoàn cảnh như thế này, anh cảm thấy mình không nên làm họ mệt mỏi hơn nữa, họ chịu đựng và chờ đợi nhiều quá, lâu quá rồi. Anh ngồi xuống:

“Giả tỉ như ở một trường hợp khác, tôi dễ xử việc này hơn nhiều chớ mấy anh em biết, có gì kẹt cho tất cả anh em dưới ghe này lắm. Tôi không nói tới trường hợp anh em xuống đây mà không cho tôi hay trước.”

“Bây giờ,” thằng Chí nói, “ngoài anh bà con với thằng Minh ra, mấy anh kia thì công việc như thế nào?”

Ý nó muốn hỏi tình trạng mấy người kia ra làm sao mà diễn tả không được. Một người nói:

“Tui với thằng này là em bà con với anh Trường.”

“Ừ, tụi nó là em tui,” Trường xen vô.

Anh kia tiếp lời:

“Tụi tui thì phái đoàn Mỹ đã phỏng vấn xong xuôi rồi, có nghe nói tháng sáu tới có chuyến đi, mà bây giờ gặp anh Trường ở đây, tụi tui muốn theo anh đi Úc.”

Từ lâu, Thanh có thói quen coi thường những vụ chia tay và đôi khi anh đâm ra bực mình cái lối bịn rịn, dùng dằng. Sao bây giờ, ở giữa đường lang bạt, anh nghe thông cảm hết với tất cả mọi người. Hình như ai cũng có ý tưởng mỗi lần đi như vầy là đi luôn, đi đứt, không phương gặp lại.

Một thứ không khí đè nặng lòng tất cả mọi người, hầm máy im phăng phắc. Người ta chờ quyết định của Thanh trong khi Thanh chờ quyết định của lòng mình. Anh chớp mắt nghĩ tới những rắc rối có thể xảy ra, chỉ trong đoạn đường từ bến ra cửa biển, thêm nửa giờ ra khơi, là coi như thoát.

Có vài người mệt mỏi, đang đứng bỗng ngồi bẹp xuống sàn hầm, rồi vài tiếng thở dài.

Cuối cùng thì Thanh cũng đành. Anh nghĩ rằng cứ để cả sáu người dưới hầm máy trong lúc ra cửa biển, có gì, anh có thể nói là không biết, chắc không đến nỗi rắc rối vì quả tình, anh cũng muốn chìu lòng tất cả mọi người. Anh trở lên cabine.

Bây giờ thì dưới ghe chỉ còn lại toàn những người đi. Canh, nhỏ Thảo đứng bên chiếc tàu sắt, nhìn chòng chọc qua bên này. Có hơn ba chục người dân trại xuống, đứng đặc một bên sườn, không kể rất nhiều người đứng lố nhố trên bờ.

Lúc thằng Trường cho nổ máy thì cũng vừa vặn hai chiếc ca nô của Hải Quân Nam Dương từ phía sau cùng loạt cặp tới ngang VNKG 0042, ngừng lại. Hai ba thằng đưa tay làm hiệu, ý nói sẽ cùng đi với bọn Thanh ra cửa biển.

“Ê, Canh, Thảo, mạnh giỏi nghe…”

Tiếng Thanh hòa với tiếng của rất nhiều người dưới ghe, người trên bờ, người bên tàu sắt thành một thứ lời tiễn biệt tập hợp, ồn ào quá.

Đàng trước, thằng Chí rút lại đoạn giây choàng qua lỗ lù chiếc tàu sắt, có một người bên kia cúi người xuống phụ nâng dây cho nó. Hồng đàng sau, nó ngồi hẳn lên thùng nước uống kéo nhè nhẹ, sợi dây như một con rắn lội chập chờn trên mặt nước.

“Cho de lại một chút, lấy mũi ra khỏi hông tàu sắt rồi hãy tới nghe Triều.”

Triều gài số de, tiếng máy nhỏ đi một chút. Tiếng la ó lại được dịp nhao nhao lên. Ai cũng cố, muốn la cho lớn hơn người khác. Thằng “bộ đội” bắt loa tay, hét vông vổng:

“Bai, bai…”

Cuộc chia tay kéo dài cho tới khi ghe qua hết hàng dừa dọc bờ sông và thằng Triều tiếc rẻ nhận còi từng chập, vang vọng.

Thanh nhìn đồng hồ “sáu giờ bốn mươi lăm.” Đi trước hơn giờ định mười lăm phút.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (16)

VÕ HOÀNG

“Đảo Paulo Kanglam là đảo này đây. Từ đây mà đi xuống tới con kênh cũng mất nửa ngày. Nếu mình không ghé ở Bali thì phải nghỉ máy ở đây.”

“Vô đây đi Thanh. Đừng ghé đảo lớn sợ gặp cảnh sát lôi thôi lắm.”

Thanh cũng nghĩ như Chí. Nước uống sắp cạn, cần phải lấy thêm mặc dầu nước đá vẫn còn đủ cho bọn anh đi tới Úc. Thanh bước vô cabine, quăng mạnh xấp bản đồ lên bục:

“Lòn qua mặt bên kia kiếm chỗ êm hơn đậu nghỉ máy ít tiếng đồng hồ, tối chạy tiếp.”

Triều không nói gì, chỉ bập bập điếu thuốc.

Ba giờ chiều mà trời không có nắng, lại còn lành lạnh. Thanh chồm người lấy cái áo khoác của Canh, rút hai chân co vào ngực, nhìn vào đảo.

“Trên này chắc có người ở. Đảo cũng lớn lắm, Triều hả?”

“Ừ.”

Thanh lay thằng Hòa đang quấn một cục to tướng trong góc sàn cabine, sát phòng lái:

“Dậy. Dậy. Vô lấy nước, Hòa.”

Thằng nhỏ ngóc dậy, ngó bâng quơ, vừa định kéo chăn trùm tiếp thì Thanh vò đầu, la tiếp:

“Dậy đi, dậy hết đi.”

Triều bớt ga, máy chạy chậm chậm tìm chỗ tốt bỏ neo. Bất chợt đàng trước thằng Minh Quảng Ngãi la lớn:

“Có người, trên đảo có người.”

Ba bốn người, mỗi người một chiếc xuồng bơi dọc theo bờ biển cát trắng, nhìn đúng chỗ là thấy rất rõ. Thanh bước ra ngoài sau khi nói với Triều:

“Để ga nhỏ nhỏ, đừng lớn lắm, chạy vô trong một chút đi.”

“Tụi này đi xuồng giống mọi quá, Thanh hén.”

Thằng Chí nói xong thì đi lần về phía sau, nó hét tụi kia soạn thùng nhựa sẵn sàng chút nữa lấy nước ngọt. Thanh vịn tay vào cái bè bên trái, cố nhìn cho rõ ở trong để đánh giá mức độ an toàn cho mình khi phải ghé vào đó. Suốt một dọc bãi cát trắng, có thêm vài chiếc xuồng được kéo, kê hờ hững, không thấy một mái nhà nào trên đó.

Có gì bên trong?

Đảo Kanglam lớn bằng hai hòn Xưởng, nhưng chắc cũng có người. Dân Nam Dương, trước Thanh học địa lý có biết, đông và kém văn minh. Có nhiều nơi chính phủ trung ương vẫn chưa kiểm soát được. “Không biết tụi này có cà răng căng tai và ăn thịt người hay không?”

Ba chiếc xuồng có người rẽ một vòng ngắn rồi bơi thẳng ra ghe. Lúc này, khoảng cách còn chừng hai trăm thước.

Nhựt, anh em bà con với thằng Minh Quảng Ngãi đi lần về phía Thanh, nói nhỏ:

“Tui nói tiếng Nam Dương được chút chút, để tui hỏi thăm tụi nó nghe anh Thanh!”

“Nhớ là mình chỉ chủ ý ghé lên lấy nước ngọt thôi nghe. Không ổn thì thôi, ghé đảo lớn cũng được.”

“Dạ, để tui hỏi thử.”

Mười mấy cái thùng nhựa sẵn sàng để dọc theo be. Thằng Chí cẩn thận móc những khúc cây vạt nhọn đầu ở hầm mũi lên, quăng cho mấy thằng đang đứng xớ rớ đằng trước. Tất cả im lặng.

Đàng sau cũng im tiếng mấy bà.

Tới gần hơn. Ba người dân Nam Dương không mặc áo, chỉ có một mảnh chăn quấn ngang bụng, không giống váy, cũng không giống xà rông của người Thái. Da tụi nó đen bóng như thoa mỡ.

“Hỏi tụi nó, đây là đâu, Nhựt?”

Thằng Nhựt làm loa tay nói líu lo như mọi trong các phim thám hiểm. Tụi kia đồng loạt ngưng chèo. Một trong ba thằng đáp lại.

“Nó nói là cái gì đó, tui không hiểu. Mà thấy tụi này có vẻ hiền lắm, anh Thanh à.”

“Ừ, hiền thì hiền, nhưng nói với tụi nó, mình cần nước uống thôi, vô lấy xong thì đi ngay.”

“Chắc được!”

Khi ba chiếc xuồng áp sát vào ghe, hai ba đứa ở Nam Dương lâu ngày khom người xuống nói xí xố xí xào, thằng Văn la to bằng tiếng Anh:

“Nước, nước.”

Nó cầm cái thùng nhựa đưa lên cao.

Thằng Nhựt quay lên:

“Tụi nó biết rồi, tụi nó chỉ ở đầu gành đàng kia có nước, mình chạy ghe về phía đó đi anh Thanh.”

Thanh nhìn về hướng tay thằng Nhựt và thằng Nam Dương cùng chỉ. Những gành đá không lớn mà dài nằm san sát trên mặt nước. Chung quanh, rong rêu và bọt biển nổi lều bều chứng tỏ không được an toàn lắm. Anh nói:

“Chắc mình chỉ đậu được ở đây thôi rồi đổ bộ về đó lấy nước. Chạy ghe qua đó nguy hiểm lắm.”

Thanh nghĩ lại mấy tháng trước lúc ghé lại hòn Gầm Ghì cho người dưới ghe lên bờ đã bị kê lên đá. Mối nguy lớn tới độ xuýt nữa anh, thằng Hòa và hai thằng nhỏ nữa bỏ xác ngoài khơi nếu không gặp ghe Thái Lan vớt kịp. Thật thì ghe chỉ bị dộp một ít dưới đáy, nhưng chạy đường trường thì cái nguy càng lúc càng lớn. May là bọn anh đi được suốt đêm và nửa ngày hôm sau nữa, tới được lằn đánh cá của tụi Thái Lan.

Còn bây giờ, “có bề gì, lo làm sao nổi.” Trong khi mình vẫn có thể làm được chuyện với một chút khó khăn hơn, mà an toàn.

“Anh Thanh, nó nói mình cho nó tấm lều vải, nó sẽ chở nước ra đây cho mình.”

“Đâu được!” Chí nói. “Lều vải để che mưa che nắng mà cho cái gì, mình có một cái thôi mà.”

Thằng Nhựt quay xuống phân bua với người Nam Dương, cả hai thằng đều có vẻ không được vui.

Thanh thấy vấn đề không phải ở chỗ đặt điều kiện này nọ để trao đổi mà ở chỗ anh biết được những người trên đảo không có ý xấu với bọn anh là tốt rồi. Anh nói với thằng Phong đang đứng gãi đùi bên cạnh:

“Lấy mấy cái áo, cái quần lính, đồ của Liên Hiệp Quốc cho, cái nào không xài đem ra cho tụi này, chắc tụi nó cũng khoái như thường. Tụi này nghèo quá.”

Phong quay đi một lát, nó ôm ra một đống đủ thứ quần áo lâu nay nằm lang thang trong hốc kẹt. Thằng Nhựt vớ ngay một cái có vẻ tốt nhất, cúi xuống.

Kết cuộc, những người Nam Dương bơi xuồng trở vô với những cái thùng nhựa và đống quần áo cũ. Tụi nó có vẻ hài lòng lắm.

Thằng “bộ đội” chợt la bai bải:

“Chết mẹ rồi, cái áo của tui!”

“Kệ!” Phong cười. “Đồ Việt Cộng để làm gì?”

“Kỷ niệm! Tui để dành, nhớ ông già tui.”

“Mẹ mầy, ông già mầy là Việt Cộng hả? Qua Úc, người ta cho mầy đồ ‘vét’ mà mặc, mặc chi mấy cái thứ đó. Cảnh sát Úc còng tay mầy.”

Thằng “bộ đội” nín khe.

“Chắc tụi này không phản phé đâu Thanh há. Tụi này hiền quá.”

“Tụi nó hiền thiệt. Thôi bây giờ tắt máy nghỉ một lát, nấu cơm ăn tối chạy tiếp.”

Hùng, Hồng, Nghiêm dở hầm số hai lôi lên mấy con cá bè khô xách về phía sau. Tiếng chẻ củi phá rách không khí im vắng của buổi trưa âm u ở đây. Cảnh vật chung quanh gần như bất động, trông sao mà buồn quá.

Nửa tiếng đồng hồ sau thì một loạt sáu bảy chiếc xuồng từ trong bãi cát bơi thẳng ra. Không thấy những cái thùng nhựa bên trên. Thằng Triều tặc lưỡi:

“Mẹ, mấy cái thùng đâu hết trơn rồi. Có chuyện gì nữa đây!”

Tới gần thì rõ ra rằng những cái thùng nhựa chứa đầy nước ngọt vặn cứng nắp được cột dọc theo hai bên xuồng chìm dưới nước. Tụi này cột thùng bằng một loại dây rừng mà ở Việt Nam không thấy có. Trên xuồng, ngoài mớ quần áo cũ lúc nãy, có thêm những trái bí rợ to tướng.

Thằng Nhựt chỉ trỏ mấy trái bí, nói cười huyên thuyên, hai ba thằng Nam Dương cùng cười.

Những trái bí được chuyền lên trước tiên rồi lần lượt những cái thùng nước. Thằng Chí trở ra với thêm một đống quần áo ôm trước bụng. Nó quăng xuống một chiếc xuồng gần nhất. Mấy người Nam Dương thoáng một chút ngạc nhiên.

Tình hình cởi mở và vui vẻ hơn khi thằng Nhựt cho hay, những người Nam Dương sẽ chở thêm bí và thịt ra cho. Hỏi thịt gì thì thằng Nhựt không biết.

Tám cái thùng nhựa nước ngọt được đổ vội vàng vào thùng chứa và quăng trở lại xuồng. Còn bao nhiêu thùng khác, cả bọn chuyền nhau đem xuống hầm sau lái. Phải chờ thêm một chuyến nữa.

“Bí này dẻo mà ngọt lắm đó!” tiếng “cái bình hơi.” “Cậu Hùng đưa đây tui chặt cho. Nhỏ nhỏ thôi…”

“Sao chị biết ngọt, biết dẻo?”

“Đó, coi cái màu của nó.”

“Hay quá ta!”

Đàng sau xôn xao nấu nướng. “Cô thịt chó” với A Kiếu khệ nệ bê nửa cái thùng phuy chắt bỏ nước vo gạo. Thằng Nghiêm đứng cạnh đó, chỉ nhìn chớ không chịu tiếp tay. Thanh cảm thấy mắc cười trong bụng.

Gần nửa tháng nay, ít khi thằng Nghiêm léo ra chỗ mấy bà trú đóng. Nó với A Kiếu hình như không nói chuyện với nhau tiếng nào. Câu chuyện tình hình như đã không còn hấp dẫn như lúc ở trại đối với A Kiếu. Mà chắc thằng Nghiêm cũng muốn như vậy.

Cái đêm cuối cùng ở Djakarta, thằng “bộ đội” trên bờ xuống, thỏ thẻ với Trường rằng nó thấy A Kiếu ngồi ăn chè đậu đen với thằng Hải mà “hai người có vẻ tình lắm.”

Trường rầy nó:

“Chuyện của người ta, mầy xía vô làm gì. Con nít con nôi, kệ người ta.”

“Thì tui thấy vậy, tui nói vậy, xía cái gì đâu?”

“Vậy là xía rồi đó,” Thanh cười góp chuyện.

“Anh Thanh, sao anh Nghiêm làm tỉnh hay quá vậy. Tui thấy, tui phục ảnh ghê.”

“Vậy chớ như mầy, mầy làm tỉnh không được sao?”

“Đâu được anh, người ta thương mình, mình không thương lại là có tội chớ sao.”

Thằng Trường trề môi:

“Mẹ mầy. Mầy sợ tội với “con thịt chó” chắc!”

Thằng “bộ đội” nín ngay. Nó không muốn ai nhắc “cô thịt chó” trước mặt nó.

Chuyện thằng Nghiêm, Thanh chỉ mong cho nó được như vậy, ít ra cũng đỡ lu bu hơn. Chẳng qua, một đằng thì thờ ơ đã đành, một đàng thì cần thiết có sự che chở trên bước đường xa lắc không chắc tới bến tới bờ… Vậy cũng xong!

A Kiếu còn ông già bà già và hai đứa em ở Songkhla và nghe đâu có người anh ở Gia Nã Đại bảo lãnh, còn đang lo cho đủ tiền vé phi cơ là điều kiện của phái đoàn Gia Nã Đại như thế. Gia đình cô ở trại cả năm rồi.

Cô không đẹp, nhưng thật thà và làm gì cũng làm chí tình. Những ngày đầu, Thanh để ý thấy cô vẫn còn liếc trộm thằng Nghiêm mà sắc mặt không lộ vẻ gì gọi là cay đắng lắm, cho tới khi một buổi sáng mờ thay lái, Thanh thấy Hải và cô ngồi nói chuyện thì thào ngoài sau, cạnh thùng nước uống.

Mà sao thằng Nghiêm biết chuyện, lại có vẻ “khờ” hơn trước? Thanh nghĩ không ra.

Vợ thằng Phong cằn nhằn nho nhỏ gì đó, có lẽ đứa nào lấy mất cái áo khoác lâu nay cô ta dùng làm gối kê đầu. Xong thì ngồi ôm gối nhìn ra biển, không để ý gì đến xung quanh.

Mấy chiếc xuồng lại trở ra, vẫn mang theo nước uống, bí rợ và có thêm mấy xâu thịt khô. Thằng Nhựt nhăn mặt hỏi mấy câu. Một thằng dưới xuồng nói một hơi rồi cúi người giả cách bơi hai tay, mặt úp xuống.

“À, con vít cỏ,” Triều la lớn.

“Phải rồi, vít cỏ!” Phong la theo.

Thằng Triều làm như rành lắm, nó bô bô:

“Xứ tui kêu là vít cỏ, có nơi kêu là con thịt. Nó giống như con đồi mồi, con ba ba, con rùa đó mà.”

Thằng Phong ngồi hẳn xuống, lật qua lật lại mấy xâu thịt, chép miệng:

“Thứ này mà nướng vàng vàng, có rượu thuốc là uống chết bỏ.”

“Ê, có hai loại ‘thịt’ nghe!” Triều nói, nó cúi xuống. “Thứ này là ‘thịt mỏng’ nè, ăn được. Còn ‘thịt dày’ thì độc lắm. Người ta kêu là ‘vít lửa’ mà. Nó ăn toàn rong độc và sứa lửa, mình ăn nhằm một cái, trào máu họng, chết tại mâm luôn chớ phải chơi đâu.”

Những điều này, Thanh biết. Anh có nghe nhiều người chết vì loại thịt này rồi. Thằng “bộ đội” thắc mắc:

“Vậy làm sao biết được?”

“Sao không! Thịt dày cái thớ thịt của nó lớn hơn, mà trên lưng ít hơn mười ba vẩy. Thứ nào nhiều hơn mười ba vẩy là ăn được.”

Thằng “bộ đội” có vẻ phục nên gục gặc đầu, nói thầm thì:

“Ờ, ờ, vít lửa, ăn trào máu họng.”

Đứa nào cũng châu đầu vào cố xem cho được mấy xâu thịt khô. Những người Nam Dương nói với nhau gì đó rồi lấy dầm đập đập nước cho văng vào nhau, cười hăng hắc. Thanh thấy vui lây với cảnh vật ở đây.

Hoàn cảnh nào, xứ sở nào cũng vậy. Hễ có tiếng cười là con người thấy vui. “Mà kỳ! Tiếng cười và tiếng khóc của bất cứ giống người nào cũng đều giống nhau.”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (17)

VÕ HOÀNG

3 giờ sáng ngày 24 tháng 3-1978.

Vịnh Bali vằng vặc ánh trăng đầy. Không khí ở đây dường như nhẹ hơn những nơi khác. Thanh cảm thấy lồng ngực tràn lan một thứ tình cảm dịu dịu mà mát rượi, nghĩ tới ai cũng vui được. Hình như đêm nay trăng rằm thì phải.

Neo lại nghỉ hơn một tiếng đồng hồ rồi mà Thanh vẫn chưa ngủ được. Tiếng hát “cái bình hơi” dù cho cố nén cách mấy cũng nghe tỏ rõ từng lời.

“Đêm khuya rồi, hát làm gì những câu hát đó, nghe buồn quá chừng,” Thanh nói thầm, nghe tiếp:

“Tình người sau cơn mê vẫn xanh
Dù bao tháng năm đau thương dập vùi
Trường quen vắng ta, mai ta lại về
Cùng theo lũ em học hành như xưa

Rồi đây qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng
Ta lại về bên em…”

Phải công nhận là tiếng ca truyền cảm không thua một ca sĩ thứ thiệt nào cả. “Cái bình hơi” chợt ngừng nói khẽ:

“Mầy gởi thơ về trại cho ổng rồi hả, Lược?”

“Cô thịt chó” tên Lược! Có lẽ chỉ gật đầu nên không nghe được tiếng trả lời. Chập sau, “cái bình hơi” nói tiếp:

“Đáng lẽ mầy không nên đi như vầy. Mấy đứa em mầy buồn chết. Mà mai mốt mầy cũng buồn chớ không phải chơi đâu nghe Lược.”

“Kệ! “Cô thịt chó” nói với giọng nhỏ xíu. Tui cũng lớn rồi, tui tự lo cho tui được mà!”

“Hồi đó mầy học tới lớp mấy?”

“Mới có lớp sáu thì giải phóng, nghỉ luôn.”

“Tao, thì tao rớt phần hai, bà già biểu nghỉ.”

“Cái bình hơi” cũng dân có học chớ không phải chơi đâu nghe. Thanh trở đầu qua một bên, lắng nghe.

“Mầy biết không, hồi đó tao học chưa có thằng con trai nào học lại tao mà. Con gái mà học toán mới hay chớ!”

“Hay, sao chị thi rớt?”

Có lẽ “cái bình hơi” suy nghĩ, nên trả lời chậm một chút:

“Năm đệ nhứt, kỳ đó, thi ai-bi-em mà, hên xui. Với lại tao học được có nửa năm, ông già chết, học hết vô.”

“Tui thì không ai chết hết mà ông già bà già cũng biểu nghỉ. Mà thiệt! Giải phóng rồi, đi học toàn là hát với lượm rác, không chán sao được.”

“Ừ, chán lắm.”

Rồi hai người cùng im lặng.

Thanh ngồi hẳn dậy, vươn mình kéo hộc tủ lấy thuốc hút. Anh bật diêm quẹt, ánh sáng chập chờn soi phòng lái chỉ có một mình. Đêm nay trời trong và mát, tụi kia kéo hết ra sàn ghe ngủ cả. “Cái bình hơi” lên tiếng:

“À, anh Thanh cũng không ngủ được hả?”

Không hỏi “sao chưa ngủ” mà lại hỏi “sao không ngủ được,” cô này hay thiệt. Thanh đáp:

“Ừ, nằm một hồi tự nhiên nhớ nhà quá!”

“Anh có đói không, Nhung nấu cái gì cho ăn nghe?”

“Thôi, cám ơn chị. Chị có đói thì nấu mà ăn. Còn cô Lược nữa đó, hai chị em nấu ăn đi.”

“Không, không. Nếu anh đói thì tụi này mới nấu, còn không thì thôi.”

“Thử nói chuyện lâu lâu với hai cô này coi sao.” Thanh gấp đôi tấm mền lại hất qua một bên, ngổi quay mặt ra sau, vừa cười vừa nói:

“Tôi nhớ nhà không ngủ được, hai người có nhớ nhà không mà cũng không ngủ?”

“Cô thịt chó” hớt lời:

“Nhớ chớ, nhớ chớ anh Thanh. Thường đêm em ngồi một mình, nhớ ba nhớ má…”

“Cái bình hơi” xen vô:

“Xí, mầy nhớ sao tự dưng mầy bỏ ổng bả mầy đi?”

“Vậy mới nhớ!”

“Nhớ thằng ‘bộ đội’ chắc!”

“Cô thịt chó” nín khe.

Thanh cười, đỡ lời:

“Phải rồi. Hồi ở với cha mẹ, có ai nhớ cha nhớ mẹ đâu. Đi khỏi rồi mới nhớ chớ!”

“Ra đời rồi mới biết,” “cái bình hơi” nói chầm chậm. “Nhung thì Nhung chỉ thấy tiếc mà không thấy nhớ.”

“Vậy là sao?” Thanh hỏi.

“Tiếc thật, anh Thanh à. Biết rằng con người ta sống đâu ai được trọn vẹn nhưng ít nhất mình có cố gắng chắc cũng khá hơn. Hồi Nhung ở nhà, chưa bao giờ dám nghĩ là mình phải làm cái này, phải làm cái nọ cho cha mẹ vui lòng. Ngay cả khi hay tin ông già chết trong trại cải tạo cũng còn chưa biết thương mẹ. Thiệt kỳ!”

Thanh im lặng, hơi xúc động. “Cô thịt chó” cũng không nói gì, và hình như cô cũng mới biết chuyện nhà của “cái bình hơi”.

“Mà phải chi mẹ Nhung đòi hỏi nhiều gì cho cam, đàng này bà chỉ mong chị em Nhung hiểu rõ hơn cái thân phận của mình rồi cố làm cho đừng khác người ta. Anh biết không, mầy biết không Lược, thiệt lâu lâu nghĩ tới, đứt ruột. Ông già bị bịnh ruột cả chục năm rồi, vô học tập mới nửa năm thì hết chịu nổi. Ở nhà hay được thì nó chôn đâu hồi nào rồi.”

“Làm sao mà ở nhà chị hay được?” “cô thịt chó” hỏi.

“Nhận được giấy báo tử! Bà già không khóc một tiếng, anh Thanh à. Mẹ Nhung không khóc một tiếng, nhưng thường thường, bà ưa ngồi yên lặng nhìn ra đâu đâu, nhất là ban đên, nhất là khuya…”

Thanh thở nhẹ. “Cái bình hơi” ngừng lời như đón nhận niềm thông cảm của người nghe chuyện.

Mà Thanh thông cảm thật. Bao nhiêu câu chuyện dù có cố nghĩ là được thêu dệt thêm, cũng không làm giảm đi cái tủi hờn đau đớn phải có của đời tủ, mà lại là tù Cộng Sản. Có những cái chết mà chỉ quỷ thần biết đến. Có những nỗi đau mà chỉ người tù và cai ngục cảm nhận ra được, Thanh nghĩ như vậy, bởi vì thật sự tất cả những sinh hoạt trong đời tù cộng sản đều được thực hiện theo một kế hoạch đã nghiên cứu tinh vi rồi.

Thanh lắc mạnh đầu, xua đuổi hình ảnh thằng cha Tám Nương với giọng cười hềnh hệch, đứng cạnh cổng chính nhìn vào hai ống chân anh, cái ngày rời trại Giồng Riềng. “Ghẻ khuyết ăn loét tèm lem ra trông giống như cái… mặt mẹ nó, rồi cười!”

Thanh nhìn “cái bình hơi”:

“Tù cộng sản ghê lắm, tôi biết. Tôi ở hết tám tháng mà. Thiệt tình là chỉ muốn trốn để chết, mà chưa dám.”

“Rồi sao, anh được thả hả?”

“Ừ. Ở nhà lo tiền mà. Bốn ngàn đồng, tiền mới.”

“Cô thịt chó” lè lưỡi:

“Hai triệu!”

“Ừ, hai triệu.”

“Anh tội gì?”

“Tội gì đâu! Nó nghe gì đó thì nó bắt!”

“Cái bình hơi” với tay lấy tấm mền đang đắp hờ ngang chân A Kiếu quấn vào người. Cô gái Tàu Chợ Lớn ú ớ mấy tiếng rồi lại ngủ tiếp. Thanh hịt mũi:

“Mấy cô gan thiệt. Biển cả sóng gió ghê gớm lắm sao rủ nhau mà đi như thể này. Ở trại chờ người ta bốc, cho sướng.”

“Mình thích là mình đi chớ, anh Thanh. Ở đời, làm cái gì mình thích làm mới có ý nghĩa. Nhung nghĩ, người ta ai cũng một lần chết, Nhung đâu có sợ.”

“Bữa nay, tưởng nói chuyện chơi cho vui ai dè ‘cái bình hơi’ làm thiệt như kiểu tâm sự.” Thanh quay qua “cô thịt chó”:

“Cô Lược vì cớ gì bỏ cha mẹ, em út ở trại mà đi? Cô không buồn sao?”

Cô gái nhỏ ngượng ngập cúi mặt, không đáp. Thanh nhìn thấy bàn tay bé tí xíu đang run run vò nhẹ lai quần thì đâm thương hại:

“Ừ, tôi đồng ý với cô Nhung là mình cứ làm những gì mình thích làm, miễn sao đừng phạm tội là được. Vấn đề chính yếu là ở chỗ đó.”

“Với lại phải sống cho đàng hoàng. Anh Thanh biết không, Nhung thì Nhung kỵ nhất là sống mà gạt người ta, với lại nói đàng này làm đàng khác.”

Cô nàng nhỏ giọng lại:

“Hồi ba Nhung còn sống, lâu lâu ổng về nhà một lần, mà ổng nói hoài, tín vi quốc chi bảo, chữ tín nếu ai cũng biết giữ thì nước yên, không loạn lạc. Như Nhung, hồi đi Nhung hứa với mẹ là sẽ lo cho thằng Thông tới nơi tới chốn, mà cái thằng thiệt không ra gì, cũng buồn…”

Thanh gục gặc đầu. “Cô nàng nói chuyện lộn xộn mà nghe ra cũng hết được. Ý nói làm người phải sống thành thật với nhau, rồi mượn cớ đó xin lỗi mình về chuyện làm của thằng em mấy hôm trước chắc!”

“Cô Nhung cũng rành chữ nho nữa à?”

“Không đâu, biết chút chút thôi. Ông già dạy tới đâu, biết tới đó chớ hay ho gì. Ở trường đâu có dạy…”

“Ba cô trước kia làm gì mà phải học tập?”

“Ông dạy học, rồi làm Thủy Lâm. Mấy năm sau này đổi tuốt lên Ban Mê Thuột. Phó trưởng ty đó!”

“Cô thịt chó” xen lời:

“Nhà chị hồi trước chắc giàu?”

“Giàu gì?”

“Thì phó trưởng ty…”

“Phó trưởng ty thì sao?” “Cái bình hơi” lớn giọng.

“Phó trưởng ty mà không giàu?”

“Mầy con nít mà cũng biết.”

Thanh phì cười:

“Thôi! Sao cô Nhung hay lớn tiếng với cô Lược quá vậy. Chuyện có chút xíu mà cũng muốn gây được.”

“Anh Thanh coi. Nó biết gì mà hỏi xách hỏi mé chuyện nhà Nhung. Bộ phó trưởng ty là phải giàu sao?”

Thanh không đáp lời, chỉ cười nhẹ. “Cái bình hơi” buông xẵng:

“Mà dù cho có ăn hối lộ thì cũng chỉ vì phải chia chác, đút lót cho mấy ông lớn ở trên để mà yên thân chớ giàu có gì. Nó hỏi giọng đó là ý nó muốn nói ông già Nhung không tốt chớ gì nữa.”

Thanh hết hứng nói chuyện với hai cô này rồi. Anh chống hai tay đẩy người lui về phía trước sàn cabine, chặc lưỡi:

“Tôi ít có ý kiến về chuyện đã qua. Nói một hồi sanh ra đủ thứ chuyện. Hai cô nhịn với nhau đi cho rồi.”

“Thì nói cho con Lược nó biết vậy mà, rầy rà gì nó. Nhung coi nó như em mà nó đâu có biết.”

“Cô thịt chó” thỏ thẻ:

“Thì tui cũng coi chị như chị tui, tui mới hỏi vậy chớ không, tui đâu có thèm hỏi.”

“Mà mầy hỏi cái giọng đó là không nên, mầy biết không?”

“Chắc tại tui dốt nên tui không biết.”

Thanh quay ra trước, cười thành tiếng. Hai cô gái chắc cảm thấy chuyện vừa rồi làm phật ý Thanh nên im luôn.

Thằng Hải có lẽ nghe tiếng nói hơi lớn của “cái bình hơi” nên không ngủ được nữa, từ trên nóc cabine thòng chân tìm chỗ tựa để leo xuống. Nó lầm bầm:

“Bàn đêm bàn hôm, nói chuyện nho nhỏ một chút cho người ta ngủ. Tiếng thanh quá!”

Không nghe tiếng “cái bình hơi” đáp lại. Cô nàng có lẽ biết đó là lỗi của mình nên im chắc. Thằng Hải kéo cửa hông cabine, lách mình vô:

“Anh Thanh cho em điếu thuốc.”

Thanh hất mặt:

“Trong hộc tủ đó. Có cả ống quẹt trong đó.”

“Đương ngủ, nghe ‘tiếng động lạ tai’, hết ngủ.”

“Thôi mầy.” Thanh cười nhẹ. “Đừng lớn tiếng, người ta nghe người ta buồn.”

Thằng Hải bật diêm châm thuốc. Nó lập bập mấy cái rồi cặp điếu thuốc, quơ quơ:

“Mai mình ghé vô đảo này không anh Thanh, hay đi luôn?”

“Đi luôn. Có mấy người đi lậu dưới ghe, tao sợ ghé vô gặp rắc rối. Mình còn đủ dầu đi tới Úc lận mà.”

“Bữa nay mấy rồi anh Thanh?”

“Hai mươi bốn, mai hai mươi lăm. Năm ngày nữa, nếu không có gì trục trặc, mình lọt vô hải phận Úc.”

Thằng Hải thấy Thanh tung mền ra đắp lên tới ngực, nó biết anh định ngủ, nói trỏng không:

“Trăng sáng quá, nằm ngửa trên kia khó ngủ ghê!”

Xong, nó lách mình ra và kéo cửa cabine lại. Thanh nghe tiếng nó mở nắp thùng nước uống và hỏi nhỏ:

“Lược uống nước không?”

“Mới uống.”

“Sao không ngủ đi, khuya rồi.”

“Ngủ không được.”

“Sao vậy?”

“Ai biết.”

“Ngủ đi.”

“Thì ngủ nè.”

“Ngủ sao còn ngồi đó?”

“Thì nằm.”

Có tiếng “cái bình hơi” cười khúc khích. Thằng Hải chắc ngượng nên không nói nữa và lọc cọc lạch cạch đạp chân vào vách cabine leo trở lên.

Đêm càng về khuya, trăng càng sáng. Thanh rút tay ra khỏi mền xem đồng hồ, hơn bốn giờ. Sắp sáng tới nơi. “Làm gì cũng phải ngủ cho thẳng giấc, hy vọng không ai làm ồn phá giấc sáng. Khi nào thức cũng được. Khi nào thức thì lại đi tiếp.”

Thanh kéo mền lên nửa mặt, nghiêng người về trái nhìn ra ngoài cửa kính nứt nẻ sau trận bão kỳ trước. Mặt nước sáng hực ánh trăng, chập chờn những lằn nét phối hợp hỗn độn của gợn sóng và lằn nứt cửa kính, lăng nhăng quá.

Anh nghĩ tới tiếng máy nổ đầu tiên của ngày mai, cảm thấy nôn nao. “Nó mà kiếm chuyện là mình chỉ có nước chịu thua. Giờ này, làm gì nó cũng mát lòng rồi. Chiều, thằng Phong xả nhớt, thay nhớt, lau chùi đâu đó sạch sẽ…” Thanh muốn kiểm điểm sơ trong đầu coi thử lúc này, ai thức ai ngủ, thằng nào còn thức thì nghĩ gì, thằng nào ngủ, có mền đắp không. “Không nghĩ tới thì thôi, mà hễ nghĩ tới ai dưới ghe này cũng thấy thương quá. Đương không tụ họp nhau rồi đi như thế này, sống chết không biết tới, cũng kỳ!”

Có bao nhiêu người thân yêu của từng này đứa ngóng trông chờ tin lành. “Ai mà biết được nơi trú của mình đêm nay ở đây, ngoài mình với trời đất?”

Thanh nghĩ tới cha rồi xót xa với mẹ. “Bao nhiêu năm mình không có mẹ rồi?” Anh nhớ ngày nào, mẹ lấy sách của cha đọc cho nghe hết một thiên Lục Nga, lại lẩm nhẩm “ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao” mà rưng rưng nước mắt. Mẹ kể cho nghe chuyện ông Vương Tồn Cổ: “Mày buổi sáng đi ra mà chiều về, thì tao tựa cửa nhà mà ngóng. Buổi chiều đi mà không về thì tao tựa cổng xóm mà ngóng.”

Non nước này, bao nhiêu người cha, bao nhiêu người mẹ đứng đâu mà ngóng? “Tụi này nó đi không biết ngày nào mà về.”

Thanh nhắm mắt, nghe từng hơi thở nhẹ của mình. “Phải lặng trước cái đã, chuyện, mai rồi tính tới…”

Anh mơ màng nghe tiếng “cái bình hơi”:

“Lược, sao mầy không xích vô trong này nè. Đắp chung cái mền với tao. Trời lạnh lắm đó. Trúng sương trúng gió mang bệnh ai lo cho mầy…”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (18)

VÕ HOÀNG

Mười một giờ sáng hôm sau thì bọn Thanh đi lọt vào con nước giữa hai hòn đảo Bali và Lombok. Con nước nằm ở khoảng kinh tuyến 116 về hướng đông và xuyên thẳng xuống Ấn Độ Dương đúng 180 độ.

Bắt đầu từ khi máy nổ buổi sáng sớm, không khí trong lành cộng với vẻ tấp nập của con đường hàng hải quốc tế làm cho Thanh thấy ấm cúng.

Hàng loạt những con tàu buôn xuôi ngược với đủ thứ quốc tịch. Thường thì họ nhìn bọn anh với cặp mắt là lạ, có khi họ cho tàu đi gần sát và bóp còi inh ỏi. Bên này, thằng Triều cũng không chịu thua, nó bóp còi trả lễ.

“Chiều tối là mình lọt xuống Ấn Độ Dương rồi nghe Triều. Chặng cuối đó, mà nguy nhất đó.”

“Sóng lớn không?”

“Ai biết. Nhưng chắc chắn là phải khá hơn bất cứ tháng nào trong năm. May cho mình lắm chớ không phải chơi đâu. Hồi đi, thật tình tao không nghĩ tới đoạn này. Mình tưởng nó cứ là biển như các biển khác.”

“Vậy thì khác cái gì?”

“Khác nhiều. Biển lớn khác nhiều. Mầy không thấy từ mặt nước lên cao tới gần phân nửa các dãy núi không có cây mọc sao? Sóng đánh quá mạnh thì cây cối nào chịu cho nổi. Mà đó là chỉ ở trong kinh này thôi. Mình lọt ra mặt nam của đảo này thì biết.”

Thằng Triều im lặng, suy nghĩ. Thanh tiếp:

“Sóng biển lớn thường thường thì không ảnh hưởng của gió mùa theo vùng nào cả. Nó quanh năm biển động. Nhưng mà không sao đâu, liên tiếp mấy ngày nay gió về hướng nam không hà. Ra tới đó, sóng có lớn cỡ nào cũng không thể bỏ vòi được. Ghe mình nhỏ thì chỉ sợ sóng bỏ vòi thôi, còn sóng lượn bằng cái núi cũng chấp.”

“Chà, chừng đó giống như là sãi ngựa, lên cao chót vót rồi xuống ào ào, sướng à.”

“Ừ. Tao cam đoan là mình sẽ không gặp rắc rối về sóng gió.”

“Chỉ cần máy không hư là yên chuyện,” thằng Chí góp ý. “Mà chắc không hư đâu.”

“Mầy chắc không? Phải hỏi lại thằng Trường, thằng Phong. Tụi nó là tài cải, tụi nó có quyền trả lời.”

“Đừng nói vậy chớ Triều. Chuyện hên xui ai biết được. Mà tao thì nghĩ vậy thôi. Tao tin là tao sẽ không chết ở tuổi này. Thầy bói nói mà.”

Thanh ngắt lời Chí:

“Mầy cũng tin dị đoan à?”

“Tin chút chút. Mầy không thấy có lần tao thắp nhang đó sao. Mình có lòng thành tốt hơn chớ!”

“Cái thằng không sợ người mà cũng biết sợ thần thánh. Làm như nó hiền đức lắm.” Thanh cười:

“Lúc nào mầy sợ chết, mầy mới vái ông bà phải không?”

Thằng Chí nghe nói thì nín. Triều cười lớn:

“Chớ gì nữa! Qua tai nạn thì nó quên hết trời phật, vái bao nhiêu bỏ luôn…”

“Giỡn mầy,” Chí cãi. “Tao công nhận tai qua nạn khỏi rồi thì ít khi tao nghĩ tới trời phật, nhưng đã vái cái gì là phải cúng cái đó. Uy tín mà!”

“Cái bình hơi” là gái, lại là gái xấu ỉnh, đêm qua nói tới chữ tín, bây giờ đến phiên thằng ba đá này nói tới uy tín. Thanh không nghĩ nhiều cũng biết được cả hai người đều nói thật lòng và anh tin ở lời nói của cả hai.

Thằng Chí cười, nói tiếp:

“Mầy còn nhớ thằng cha Ba Khước ngoài đầu Cồn không Thanh. Tụi tao đặt chả là cha Ba Gà.”

“Bị cá ba gà đâm phải không?”

“Không, mắc cười hơn.”

Triều xen lời hỏi với giọng ngạc nhiên:

“Cá ba gà gì?”

“Mầy biết cái mẹ gì con cá đó. Xứ mầy, chắc kêu là cá phướn đó. Ở Phú Quốc kêu là cá ba gà. Có người bị đâm, khóc mấy ngày mấy đêm, phải vái cúng ba con gà mới hết nhức.”

“Phải con cá nhỏ bằng hai ngón tay mà đẹp hơn cá lia thia Tàu nữa phải không?”

Thanh đáp ngay:

“Đó đó, nó đó. Đẹp lắm, hình như nó đẹp nhứt trong những con cá biển mà tao từng thấy. Nhỏ như vậy mà đâm một cái, thằng lì cỡ nào cũng la trời mấy ngày.”

“Rồi, tao biết rồi. Mà vái ba con gà có hết nhức không?”

“Ai biết đâu, tao nghe nói vậy thôi.”

“Còn chuyện cha Khước cha khẹo gì đó thì sao?”

Chí im lặng một lát, kể chầm chậm:

“Thì cũng là chuyện gặp điều lo sợ thì vái van vậy mà. Chả đi lưới ông Non ở ngoài cồn. Bữa đó gặp một mẻ cá bạc má lớn quá mà ông Non hồi nào tới giờ mang tiếng là đánh cá dở ẹc. Chả thấy mẻ cá quá lớn thì vái, vái thầm thôi, đánh trọn mẻ cá này cúng một con gà. Tới chừng bỏ lưới xuống, khấu ngáng lại rồi, thấy cá nó đóng quá, chìm hết phao, chìm mất luôn, bẩy tám người trục không lên, chả lại vái thầm là trục lên hết được cúng con gà nữa. Tụi bây biết không, đánh lưới xuống nước rồi, chín mười tiếng đồng hồ sau mới lấy hết lên được, cá nó muốn sình hết trơn. Từ đó mà chạy về cửa mấy tiếng đồng hồ nữa, còn mẹ gì, bán cho ai. Rồi tới cửa, ghe khẩm quá, lại sóng lớn, cha Khước vái nữa, vái là vô cửa bình yên cúng con gà nữa. Về tới cồn, cá sình rồi cũng phải tuôn lưới xuống nước cho rục đầu đặng mà rũ bỏ. Mặt chả buồn xo. Ông Non hỏi, chả nói là chả vái tổng cộng ba lần ba con gà mà không được đồng nào mẻ cá này. Tụi tao nghe, tụi tao cười từ đầu hôm cho tới sáng, ngủ thức dậy thì cười tiếp. Từ đó, ở dưới ghe, ai cũng kêu chả là cha Ba Gà.”

“Mà chả có cúng không?” Thanh hỏi.

“Cúng. Một hơi ba con gà, dưới ghe nhậu đã hết.”

“Ừ, phải cúng chớ!”

Triều tặc lưỡi:

“Đúng rồi, sống nghề biển đã không thể giỡn mặt với ông bà được. Coi vậy mà linh lắm.”

Chuyện có vậy mà đàng sau, tiếng cười A Kiếu vang vang lên. Tiếng thằng Chí kể chuyện bay theo gió lọt ra sau, mấy người con gái nghe chắc kỹ.

Không khí dưới ghe bữa nay vui hơn tất cả bữa nào hết. Trong cabine cả chục thằng nói chuyện huyên thuyên. Các câu chuyện mới đầu xoay quanh vụ ba con gà rồi dần dần chia ra hai ba tốp, đứa đứng đứa ngồi.

Thằng Hoà, thằng Văn xúm nhau xem xấp bản đồ Thanh bày ra trên tấm ván cạnh cái hải bàn, xì xào. Thanh bước ra ngoài. Gió heo thổi nhè nhẹ về phía trái ghe, lá cờ S.O.S. không biết rút dây hồi nào bay vật vờ. Thanh quay vô trong, nói trổng:

“Đứa nào ra lấy dây cột lá cờ lại. Mình đi đường trường đâu có cần phải trương lên.”

“Đi đường này khỏe hơn đi đường trong không Thanh?”

“Tao chắc là khỏe hơn.”

“Đường trong nhiều đá ngầm phải không?”

“Ừ, nhiều đá ngầm mà mình phải để ý nhiều thứ quá. Chẳng hạn như những hòn đảo nhỏ lớn chi chít, rồi sóng gió bất thường, mấy cái giáp nước tùm lum, nguy hiểm lắm. Mà đi lâu…”

Thằng Trường xoa xoa tay:

“Hai ngày nữa là phải thay nhớt nghe Thanh.”

“Ừ, hai ngày nữa, cao tay thì mình chỉ đi tới hòn đảo Lahaluta ở ngoài khơi Sumba. Ở đó, đậu núp trong sóng thay nhớt, nghỉ máy rồi trực chỉ tới Úc.”

Tụi kia nghe nói về đoạn đường cuối bằng giọng tỉnh táo và tự tin của Thanh, mặt đứa nào đứa nấy mừng lộ ra mặt.

Thằng Văn lần tay trên bản đồ, lầm bầm:

“Để coi… Lombok, rồi tới Sumbawa, rồi tới Sumba. Hòn đảo Lahuluta ở đây. Chà, sát một bên Úc. Đã thiệt.”

Hai ba đứa lại châu đầu xuống.

Thanh hỏi Trường:

“Chặng cuối mình phải đi tới gần bốn ngày. Không thay nhớt chắc được chớ gì?”

“Kẹt thì phải như vậy. Nếu không sóng lớn quá thì mình thả trôi mấy tiếng đồng hồ thay nhớt cũng được.”

“Không được. Ra tới đó mầy sẽ thấy nước nó chảy cỡ nào. Mấy tiếng đồng hồ nó trôi mấy trăm hải lý, làm sao mầy biết mầy ở đâu. Tới Úc được mà lọt vô đám sa mạc thì bỏ xác.”

“Neo không được sao Thanh?” Triều hỏi.

“Đó, ở trong lòng đảo Bali chỉ là màu xanh trắng mà xài hết bốn đường dây neo, neo mới tới. Ra khỏi con kinh này, màu xanh đậm. Tới khoảng hòn đảo Lahaluta thì xanh đậm đen. Mầy quăng neo chưa chìm tới đáy thì ghe mầy trôi biệt ngàn rồi.”

Thằng Văn lại lầm bầm:

“Để coi, đảo Lahaluta… ra một chút. Nước sâu mười tám ngàn. Mười tám ngàn gì vậy anh Thanh?”

“Bộ. Mười tám ngàn bộ tính ra gần sáu cây số. Sáu ngàn thước thì neo nào cho tới?”

“Teo thiệt. Cái này mà lọt xuống, chìm chưa tới đáy là sình nổi trở lên.”

“Bây giờ còn khoảng hai tiếng đồng hồ nữa là ra biển lớn. Kêu tụi nó nấu cơm ăn cho no, ra đó sóng lớn khó nấu lắm đó.”

Thằng Triều la lớn:

“Ê Thanh, cái tàu này nãy giờ tụi nó chạy cặp sát mình hoài, tao hụ còi mầy ra đàng trước phất áo kêu nó cho ghé lại mình xin đồ.”

“Thôi, mình có thiếu gì nữa đâu mà xin.”

“Thì kệ, đồ khô để dành lỡ có bề gì.”

Thật tình thì cũng không lấy làm chắc là mình sẽ không có bề gì. Tuy nhiên, theo Thanh, phải cặp một chiếc tàu để xin xỏ thứ này thứ kia chẳng qua ở những lúc anh không thể không xin.

Bắt đầu chặng đường này, ngay từ buổi chiều ra cửa Djakarta, Thanh tự nhủ, đoạn này mình có thể tự túc và tự giải quyết hết thảy mọi vấn đề. Cái tự ái mỗi lúc mỗi lớn sau những lần ghé tàu đã làm cho anh cảm thấy ái ngại mỗi khi nghĩ tới chuyện phải ghé lại chỗ này, phải ghé lại tàu kia…

Thằng Triều hụ còi. Đằng trước mấy thằng cởi áo quơ lia lịa, có đứa làm loa tay hú như Tarzan kêu voi. Năm bảy thằng thủy thủ nãy giờ đứng tựa bao lơn nói gì đó, chỉ chỉ chỏ chỏ qua bên này nhốn nháo.

Thằng Triều cho ghe chạy cặp gần hơn. “Ở trong kinh, tụi nó chạy tà tà quá. Mình chạy cỡ này có khi còn nhanh hơn nó.”

“Cây cờ chánh của nó cột ở đâu Thanh?”

“Ai biết đâu, nhưng phòng lái nó vẽ lá cờ lớn vòng qua tới bên kia đó.”

“Sao lại chữ thập màu xanh há!”

“Ừ, tụi Hy Lạp mà.”

Tàu Hy Lạp vẫn không đổi tốc độ. Khi thằng Triều cho ghe chạy gần lại, chiếc ghe nhẩy trườn lên những lượn sóng do tàu gây ra, bọt nước phủ tràn ra tới sau cabine. Thanh hét nhỏ:

“Thôi Triều. Tàu nó chạy mà gần làm sao được. Sóng đập ướt nhẹp hết.”

Cùng lúc, bên tàu mấy thằng thủy thủ động tay ném vài thứ qua ghe. Gần hết những thứ này lọt dưới nước. Đàng trước có thằng la:

“Nó cho đồ.”

Vài giây sau, lại có thằng la, nhỏ hơn:

“Đ. má nó. Nó liệng cam thúi.”

“Cam thúi.”

“Nó liệng, chớ không phải cho.”

Thanh lặng người. Anh bước hẳn ra ngoài, sau khi trườn mình hất tay thằng Triều và đẩy vô lăng về trái. Từ đó ra tới nắp hầm số hai có mấy bước, anh nghĩ thật nhanh và thầm mong đó là những trái cam tốt vì sức liệng và sức rơi, bị dập. “Để khỏi thấy xót xa, hay đúng hơn, để bớt thấy xót xa…”

Nhưng được vài bước, anh dừng lại, hét:

“Đ. má. Quăng bỏ hết. Quăng hết!”

Tụi kia chưa kịp ngơ ngác, Thanh nhỏ giọng lại:

“Không phải cam thúi đâu, xa quá mà, nó liệng qua dập hết. Không thằng nào ăn hết. Bỏ đi.”

Rồi anh quay trở vô, nghe đầu óc nặng chịch. “Cho dù thế nào, mình vẫn cảm thấy đau. Cố tránh không dám nhìn tận mắt những trái cam, cố nghĩ thật tốt lành về những trái cam mà cũng không ổn được. Đúng ra, nó cho mình cũng không nên cho bằng cách đó. Có lẽ tại vì nãy giờ, lá cờ S.O.S. bay vật vờ, tụi nó thấy tụi nó ghét.”

Thanh kéo hộc tủ lấy gói thuốc. Anh cầm ở tay mà cúi đầu suy nghĩ. “Thật ra cái thân phận mình chỉ có đồng bào mình hiểu với nhau. Thế giới này nhiều người vô tình quá.” Anh nhớ lại hình ảnh cô Linda, mục sư gì đó ở Songkhla, rồi viên Đại úy người Nam Dương, cố tìm một chút an ủi.

Thằng Văn trở vô cabine, một nửa người ướt sũng nước, nó nhăn nhăn:

“Cam thúi thiệt, anh Thanh à. Mẹ nó.”

“Ừ. Thay áo đi. Tiếp tụi nó nấu cơm nhanh, ăn cho kịp ra biển lớn…”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (19)

VÕ HOÀNG

“Mười rằm trăng náo, mười sáu trăng treo.” Hai đêm rồi ở biển lớn, VNKG 0042 ADC vẫn âm thầm tiến dưới bóng trăng giữa trời tháng ba.

“Hừng sáng là mình đi ngang đảo Sumbawa, tới trưa là ghé hòn Lahaluta, nghỉ máy được rồi.”

Triều dán mắt vào bóng đêm, không đáp lời Thanh.

Sóng, lượn nào lượn nấy cao bằng nửa cái núi nhưng không bỏ vòi thành ra ghe nhỏ chạy càn lên đó, nhồi mà không lắc.

Thanh giở quyển tập ghi chép hải trình coi lại. Từ ngày 9 tới hôm nay, 26, trừ ra một số ít giờ đậu nghỉ máy, cặp tàu và ba đêm ở Djakarta, chiếc ghe mười sáu thước dài, ba bloc đầu bạc đã làm hết sức của nó. Tội nghiệp!

Nhiều lúc Thanh tự hỏi, có bao nhiêu sự dồn nén, ẩn ức trong tất cả những thứ hiện diện ở đây? Từ tấm thân gầy gò, đen thui của thằng “bộ đội” đến cái ống “xẹt măng” hừng hực nóng, khói nhớt ri rỉ chui qua những mảnh sét bao lâu rồi ấp ủ, từ cái khuôn mặt đầy mụn mủ của thằng Văn với bàn tay một ngón, gân xanh nổi dồn của thằng Cụt, rồi bên trong cục bướu của “cái bình hơi,” bên ngoài lớp rong rêu bám đầy thân ghe, tất cả!

Đêm qua, đêm đầu tiên trong đời Thanh ra biển lớn, Ấn Độ Dương, và lại là đêm trăng sáng nhất trong chuyến đi. Đúng vào đêm nguyệt thực toàn diện. Thanh cảm thấy mình thật sự sống trong một ngày bắt đầu của cuộc đời khác.

Từ đầu hôm, lúc mà ánh trăng tự dưng cuốn khoanh lại rõ vành và ngả màu vàng nhạt thì trên ghe, cả bọn náo động. Tụi nó tranh nhau tìm chỗ nằm tốt, ngửa mặt mà ngắm. Chưa tới nửa đêm thì kể cả Thanh cũng quên tuốt rằng trên đầu mình, một bằng cớ biểu hiện của sự đổi thay đang thay đổi.

Thằng nào ngủ, thằng nào thức? Và thằng thức thì đang nghĩ gì? Đàng trước, thằng Chí cuộn tấm mền lên tới cổ ngồi nhìn ra đâu đâu, đàng sau, “cô thịt chó” nằm nghiêng người, tay chống gò má cũng nhìn ra đâu đâu.

Rồi cái thẩn thờ không hẹn mà đêm nay đến với tất cả mọi người. Có lẽ dư nhiều thì giờ quá, không ai nghĩ tới chuyện ngủ mặc dù hơn nửa đêm rồi. Vợ thằng Phong còn không ngủ nữa mà! Lạ cái nữa là nhiều người thức, nhưng không ai nói gì với ai cả.

Gần hai chục ngày, tiếng máy nổ đập chát hai bên mang tai riết rồi cũng quen. Có khi, Thanh quên nó đi được và cảm thấy trời đất im lặng, tịch mịch, quái dị. Trong cái không gian nửa đêm nửa ngày này, sao tự dưng thấy mình lạc lõng, nhỏ nhoi quá!

Thanh nhớ nhà quá, nhớ cái sườn dốc núi nghiêng nghiêng mà ngạo nghễ, thách đố, chắc nịch từ hướng bờ biển chạy dài vô lòng đảo. Nhớ những ngày tháng ba này năm nào, đất quê khô nứt mà có quá nhiều rau cải xanh mượt xấp từng luống, từng hàng. Người ta thừa sức sống, thừa sức ngoi dậy từ những cái ép uổng của trời đất, từ những cái tráo trở của cuộc đời này mà! Cả năm nay, kể từ ngày Thanh bỏ đi, đã có bao nhiêu thay đổi?

Nói làm sao cho hết được tâm tình của một người tự dưng lưu lạc cả năm rồi mà chưa có một nơi nương tựa, dung thân, bỗng một đêm khuya nghĩ về cái hốc núi âm u, nghĩ về cái bìa rừng bốc khói đã có lần mơ ước dựng lên đó căn chòi lá, bên cạnh mấy giồng khoai… Xong rồi cuộc cách mạng máu lửa dai dẳng với đủ thứ khủng bố, lừa đảo, con người ta chỉ còn có những ước mơ. Rồi phải tới lúc quay đi, mang theo.

Mà không đi thì phải làm sao? Có lần, Cha nói với Thanh “Sẽ có lúc mình phải luôn luôn nói dối mới có thể sống được. Sẽ có những đứa hèn hạ sống khỏe hơn những đứa không hèn hạ. Sẽ có lúc con người ta chỉ còn biết tìm nguồn an ủi bằng cách trông chờ ơn trên giải thoát cho mình. Sẽ có lúc con người ta chỉ còn biết hài lòng với chính mình bằng sự thờ ơ của những người chung quanh. Sẽ có lúc con người ta nói tới hai điều trái ngược nhau mà vẫn tưởng là một.” Còn nhiều thứ “sẽ có lúc” nữa, Thanh nhớ không hết, nhưng chung quy toàn là những thứ dù muốn dù không, một người có tối thiểu một người thân, phải rán mà tránh đừng để có “cái lúc đó” xảy đến.

Sống mà phải nói dối người này nói dối người nọ thì khó thiệt. Cuộc đời, theo Thanh, cho dù có khốn đốn đến cỡ nào, con người ta tối thiểu còn lại cái chữ tín để ấp ủ. Có đâu như vậy?

Cho tới bây giờ, Thanh vẫn chưa hiểu được cái môi trường để sanh ra và nuôi dưỡng một loại người như vậy từ đâu mà có. “Người mình từ hồi nào tới giờ, cái gốc là sống với nhau bằng chân tình. Tụi này nó về, nó đã không có tình, còn dối nhau, vậy mà nó vẫn sống, vẫn thắng. Mới kỳ!”

Những ngày cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, một lần, ông bác ghé thăm Cha, có nhắc lại những ngày còn ở Liên Khu Năm. Thanh không thấy rõ những cái không ổn trong đó mà thiệt tình, Thanh tin ông bác nói thật lòng: “Chú nó coi, mình dìa, là mình biết mình dìa phía bên thua. Trước sau gì cũng thua mà! Có điều, ở lại trong đó, quá nhiều bực mình. Mà không chừng mình mất mạng như chơi.” Rõ ràng có một sự lựa chọn khắc nghiệt mà Thanh vẫn chưa hiểu rõ lắm cái mức độ khắc nghiệt tới cỡ nào. Niềm tin tất thắng của phía bên kia ở đâu mà có?

Chiều qua, thằng Văn hỏi thằng Triều:

“Sao mầy không ở bển, làm rẫy, đánh cá, mà đi làm chi cho khổ như vầy?”

“Ừ! Đi khổ thiệt. Mà điều ở bển, lâu ngày tao thấy tao ghét. Ai đời ông bà ông vải mình, mình thờ mình cúng mà nó vô nhà nó kêu thờ cúng là cái gì đó sai đường lối, rồi một hồi nó biểu thờ ông Hồ Chí Minh. Phải nó là cha người ta không?”

“Nếu như tụi nó không làm mầy bực, mầy có đi không?”

“Đi làm chi. Thời nào cũng vậy thôi. Để yên cho người ta làm ăn, thì ai mà không khoái.”

Hai đứa nói chơi nhiều thêm nữa nhưng Thanh biết, đứa nào cũng thiệt lòng.

Bây giờ, thằng Triều ngồi im lặng hút thuốc. Mặt nó ngó ra ngoài vùng ánh sáng vàng vọt của trăng nguyệt thực. Thằng Chí nằm dật dựa thòng một chân xuống sàn cabine, chút chút đưa tay gãi chỗ này, chỗ kia. Nó chưa ngủ, nhưng nó đang nghĩ gì? Thằng Triều đang nghĩ gì?

Cho tới lúc trăng bắt đầu nhả, thằng Chí nhảy xuống, mò thuốc hút, nó nói với Thanh:

“Mặt trời ăn mặt trăng như vậy, ở xứ mình chắc cũng thấy hén Thanh!”

Rồi nó không chờ nghe đáp lời lại, vội vã nhảy trở lên, tiếp tục nằm ngửa mặt lên trời.


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Bên Trời (20)

VÕ HOÀNG

Bên trời, ở một góc bể xa lạ, khuya, A Kiếu nói với thằng Hải:

“A Kiếu biết làm như vậy thì A Kiếu không có đi đâu. Ở lại trại với ba má còn hơn…”

Rồi nó ôm ghì lấy thằng nhỏ, khóc rưng rức.

Trước phòng lái cũng có tiếng khóc, thằng Cụt. Nó khóc vì bị đánh. Thằng Chí từ đàng trước nắm mối dây neo còn dư đi lòn ra phía phải, xỏ dưới con lơn cột thêm cho chắc, xong nghiến răng:

“Cái thứ của mầy, tao giết không biết bao nhiêu thằng rồi, còn sót có mình mầy. Chui xuống hầm cho khuất con mắt. Ở đó lạng chạng tao xô dưới biển thấy mẹ mầy.”

Một dọc hai bên be, có hơn mười đứa ngồi im thin thít. VNKG 0042 ADC vừa trải qua nhiều cuộc náo loạn. Hình như lúc này ai cũng mệt mỏi, không thiết trò chuyện với nhau nữa.

Thằng Văn lo xong cái thùng phuy cắt đôi ra rồi cầm “can” dầu trút đó. Nó im lặng nhét vội cái mền màu cứt ngựa vô rồi lại tưới dầu lên. Thanh nói với nó:

“Đừng đổ nhiều quá, sóng lắc mạnh bị lật. Mày phải để xuống nước rồi hãy đốt.”

Lúc một mảnh của cái thùng phuy bốc cháy và trôi băng đi, Thanh mới nhận thấy nước dòng này chảy ghê quá. Chớp con mắt một cái, nó trôi biệt ngàn. Cứ cái điệu này, tới sáng sớm, ghe không gặp được tàu nào thì thua cuộc. Hiện tại, anh chưa xác định được rằng mình đã lọt vô hải phận Úc hay chưa.

Theo hải trình, còn không đầy ba mươi sáu tiếng đồng hồ nữa là bọn anh tới được vùng vịnh hải cảng Darwin thì máy bị hư. Máy tự động ngưng nổ. Khói đen bốc hừng hực từ dưới hầm máy. Đầu nắp quy láp bị bể.

Từ chạng vạng cho tới bây giờ, không biết là bao nhiêu chuyện gay cấn xảy ra. Trước hết, anh em thằng Hùng chưởi nhau, đánh nhau phải can ra. Thằng Minh Quảng Ngãi nổi cơn khùng bất tử nhất định thả phao xuống “lội vô bờ.” Vợ thằng Phong giành thùng nhựa với thằng Cụt chứa nước uống để thủ thân. Thằng Chí lấy búa bửa bàn thờ Bà Thủy quăng xuống biển sau một lúc cãi lẫy với đứa này đứa nọ. Rồi thằng Trường, thằng Phong, thằng Tịnh, ba thằng trụ cột của cái máy đổ thừa nhau trách nhiệm.

Thanh thông cảm hết mọi điều. Khi thằng Phong ở dưới hầm máy chui lên nói lớn để mọi người cùng nghe “Máy hết chạy được rồi!” thì chính anh cũng nghĩ trước tiên những điều kiện để được sống sót cho riêng mình. Một can nước uống chẳng hạn, giấu và không chia sớt cho ai rồi sau đó, mới tới ai là người đáng được chia sớt…

Vợ thằng Phong nói với chồng:

“Người ta nói gặp rắn thì đi, gặp qui thì trở lại. Mấy cha nội tui tự dưng ở đâu xin cho được con ba ba, vít lửa để trên ghe, tui biết là xui lắm mà không dám nói.”

Thằng Phong:

“Bà im cái miệng bà lại đi. Người ta lo trối chết, bà ở đó bà lải nhải. Chết thì chết hết chớ mình ênh bà sao bà nói hoài. Vậy chớ hồi đi, bà đã không kể chết rồi sao?”

Thằng Minh Quảng Ngãi:

“Từ đây đi vô bờ, lội ba ngày tới không anh Thanh? Mình cách bờ xa không? Nước có lạnh không? Ở đây có cá mập không?”

Thanh ngó nó:

“Mầy muốn lội thì nhảy xuống lội đi. Mà coi chừng ma da, hà bá.”

Thằng Chí thì cằn nhằn:

“Mẹ, ngày nào cũng thắp nhang đều chi, mà tới chuyện, ông bà ở đâu trốn hết. Để cái ‘trang’ chình ình ở đó làm gì?”

Thằng Giàu, thằng Văn can nó một hồi cũng không lại. Nó có cây búa trong tay mà.

Bây giờ thì thằng Văn lo xong việc đốt lửa làm hiệu, nó quay qua thằng Chí:

“Bà Thủy phạt mầy mà lây tới tụi tao, tao quăng mầy xuống biển giống như cái thùng dầu dơ đó.”

Trong đêm tối, thằng Chí ưỡn lưng, hẩy bụng đưa của quí cho thằng Văn, nó xì một tiếng nhỏ trong miệng.

Tình trạng còn rất nhiều hy vọng. Hồi chiều, Thanh nói với mấy đứa đứng lớ ngớ trong cabine:

“Máy không chạy được nữa, nhưng bây giờ mình lọt vô hải phận nước Úc rồi. Sớm muộn gì mình cũng gặp tàu. Đêm nay mình đốt lửa làm hiệu, thế nào cũng có người thấy.”

Còn một cái bình điện dư bỏ lâu nay, Thanh đem lên bắt chung dây với cái bình đang xài, dùng cho đèn pha.

Thanh nói với Chí:

“Nước chảy cỡ đó thì quăng neo xuống, nó kéo ghê lắm. Neo không ăn thì neo làm chi, Chí. Càng lúc mình càng đi xa bờ Úc thì phải rán mà làm cho đứng lại một chỗ chớ. Chặt dây đi!”

Thằng Chí tiếc sợi dây hoài nên cứ nấn ná, mà kéo neo trở lên thì kéo không nổi. Bốn đường dây, vị chi gần ba ngàn thước. Nó chịu thua nhưng cứ ngồi ngó đường dây cầm chừng. Chút chút xách cái mối dư đi tới, đi lui.

Thằng Nghiêm thì vừa bước qua cái nắp thùng nước uống, vừa bỉu môi nói với thằng Hòa:

“Non nước này mà ngồi một đống ở đó, ôm xà nẹo, xà nẹo. Tưởng như vậy là hay chắc! Mẹ…”

Nó liếc về phía A Kiếu, thằng Hải.

Ám ảnh của cái chết ít nhất cũng một lần đến trong đầu từng đứa, thành ra, có đủ thứ chuyện lạ lạ xảy đến. Thằng Hùng nói với em nó:

“Thầy bói nói anh sống tới bốn mươi mấy tuổi lận mà.”

Thầng em trừng con mắt ngó anh, không đáp gì hết mà cái miệng mấp máy.

Thanh cầm đèn pin chui trở xuống hầm máy. Ba bốn đứa, mình mẩy đầy dầu nhớt, lom khom, tháo ráp. Trường chửi thề:

“Mẹ, máy ba bloc đầu bạc mà như c.”

Thằng Tịnh:

“Phải chi cái hồi mới nứt, có khói ít ít, anh Trường tắt máy liền thì đâu đến nỗi.”

“Mầy biết cái củ c. gì mà nói.”

“Sao không biết!”

“Biết sao mầy không làm?”

“Làm sao được mà làm?”

“Mẹ mầy, mầy nhỏ mà hỗn hả?”

“Hỗn cái gì.”

Toàn là những chuyện đâu đâu không. Thanh nhờ tụi nó kéo cho hết đường dây của cái bình điện dưới hầm, đem lên trên luôn.

Cái kẹt của bọn anh là trời tối nay trong sáng quá. Mây thấp không có mà mây cao quá, đèn đi không tới. Gần như tất cả những cố gắng của bọn anh, chỉ ở giữa lưng chừng trời. Ánh sáng đèn không đi thành tia được, hình như nó lên được ít thước trên cao rồi tan mất.

Xa xa, bốn đốm lửa lập lòe nhấp nhô, ma quái quá. Thanh nói với thằng Triều:

“Mầy để ý việc gạo thóc với nước uống dưới ghe nghe Triều. Thằng nào lạng quạng chặn họng nó lại.”

“Cái bình hơi” nghe lọt được, tiếp lời Thanh:

“Mình phải tổ chức cho kỹ, chia sớt, dành dụm gạo thóc, nước ngọt. Mấy anh cho Nhung tiếp với. Ăn cháo cầm hơi nghe không. Chưa biết chừng nào mình gặp được tàu đâu.”

Rồi tất cả trở lại im lặng, tịch mịch. Thứ im lặng thiệt sự. Qua khoảng hở giữa hai cái đầu của thằng “bộ đội,” của “cô thịt chó,” Thanh nhận ra được có một đốm lửa sắp tàn đàng xa. Anh nghĩ tới Cha, tới Phượng, tới thằng Canh, nhỏ Thảo, rồi nghĩ tới quyển kinh Quan Đế, cái bàn thờ Bà Thủy. Còn có một sự liên hệ nào giữa những hình ảnh mông lung đó với cuộc đời tàn ở đây, ở một góc biển xa lạ, ở một cảnh trời xa lạ. Anh quay trở lại Triều:

“Chắc phải làm thêm một cái thùng phuy nữa, mấy cái kia sắp tàn hết rồi.”

THAY ĐOẠN KẾT

Sáng ngày 29 tháng 3 năm 1978 thì VNKG 0042 ADC nhận được tín hiệu từ một chiếc phi cơ của Hải Quân Úc Đại Lợi.

Bản tín hiệu được cột cặp với cái phao dù và quăng xuống nước ngay đầu ghe. Thằng “bộ đội” bắt lấy và đưa cho Triều. Triều đưa lại cho Thanh. “Chánh phủ Úc Đại Lợi chào mừng quý vị ghe số 0042.”

Năm giờ chiều cùng ngày, ở vịnh Darwin, Thanh bước qua ca nô của Cảnh Sát Hải Cảng để vô trụ sở của họ, có thông dịch viên Việt Nam đi kèm. Anh phải đối chất về việc cả bọn bị tố cáo là đã cướp chiếc ghe của cảnh sát Thái Lan. Hai tiếng đồng hồ sau đó, Thanh được biết mình bị tạm giam cho tới khi có sự chứng nhận từ Bangkok, chiếc ghe đó không phải là ghe của người Thái.

Thanh bước đi theo người cảnh sát Úc bằng những bước thật nặng sau khi nói với người thông dịch viên:

“Chiếc ghe đó từ nước mình chạy qua. Bỏ nước mà chạy, thì của ai cũng được. Sao anh không nói với tụi Úc như vậy?”


Góc Bể Bên Trời, Võ Hoàng, Nhân Văn xuất bản 1983.

Tiếc Gì Một Chút Hương Xuân Muộn

VÕ HOÀNG

MỘT

Năm Thuật dựng một căn chòi và lập miếng vườn nhỏ ở sát cánh đồng tràm. Ba bốn năm, ngó lại chưa thấy huê lợi nào đáng kể. Cái thứ dễ trồng nhứt là khoai mì, mà hễ cây lên cao tới thắt lưng là lá bắt đầu vàng khè rồi dường như càng ngày càng thấp xuống. Người ta giải thích rằng tại đất còn phèn nhiều quá. Năm Thuật cũng biết như vậy, mà cứ rán. Có mấy tháng nắng, nhắn thằng cháu vô tính mượn nó tiếp sức móc cái mương dài cắt ngang đám bòng bong, từ cây tràm gãy ra tới suối cạn, mà năm lần bảy lượt, nó cứ hẹn ít bữa, ít bữa… Rốt cuộc, trời vừa trở mùa, nghe nó với mấy thằng bạn cướp ghe người ta vượt biên mất biệt. Đống tràm con, Năm Thuật tính dành để đóng cừ còn nằm chình ình đó, cả năm nay rồi.

Những bữa trăng non mới mọc, Năm Thuật ưa bắt cái ghế đẩu đằng trước sân, ngồi ngó xung quanh, suy nghĩ vẩn vơ mà thấy buồn buồn. Điều làm chú ấm ức nhứt là cái sức khỏe của chú càng lúc càng mất đi, mau hơn chú tưởng. Chưa đầy năm mươi mà hễ cứ độ chừng hai chục cuốc, là phải ngừng lại, thở dốc. Hồi đầu, mới vô đây, sau mấy tháng càu nhàu về việc người này người kia giành giựt với chú những vùng đất tốt hơn và phân chia không đều ngay cả khoảng đất ọp ẹp này, chú rán bỏ qua hết mọi chuyện, bắt tay vào việc.

“Thì cũng có ai đâu, ngó chung quanh, quen biết hết mà!” Năm Thuật nghĩ. “Thời này, phần đông ai cũng là gia đình cách mạng. Mình giữ phận mình, chắc ăn hơn. Ở đời, có ba cái vô tư, trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai, nhựt nguyệt không soi sáng riêng ai. Cái việc tranh giành, phân bì là sự xấu, đừng có màng tới. Miễn người ta để yên cho mình, là được.”

Hết mùa thứ nhứt, Năm Thuật mơ hồ cảm thấy cho dù người ta có để yên cho mình, chưa chắc rằng với cái sức lực còm cõi còn lại sau một lần mổ ruột và hơn mười năm làm phu khuân vác bến tàu, mình có thể tự tạo một cuộc sống yên ổn được. Lâu lâu, ngồi dựa ngửa bên một gốc tràm, vấn điếu thuốc rê bự, bập bập, hớp ngụm nước trà, Năm Thuật nhớ và tiếc cái thời “thầy Năm Hiến Binh” với sức trai và cặp giò săn cứng mỗi buổi chiều quần thảo, làm chủ tình hình sân vận động quận.

“Cái thằng Nhược này, hồi đó mầy còn nhỏ biết cái chó gì. Người ta nói với nhau, chiều nay ra sân banh coi ông Hiến Binh đá banh. Người ta nói với nhau đội Hà Tiên có hai tay dữ dằn nhứt đi cặp làm mưa làm gió cả tỉnh, tới quận mình, đụng ông Hiến Binh là quờ quạng liền. Người ta nói với nhau, ông Hiến Binh xin đổi đi, ông Quận không cho. Mầy biết không, có lần ông Quận, để coi, ông Quận Trung phải nói, gần tới ngày về tỉnh tranh giải, chú Năm nó phải ăn, phải ngủ cho có chừng mực. Mầy biết không, hồi lúc tao lặn hào bị đứt chưn không đá banh được chiều chiều ra sân coi thử, vắng hoe.”

Năm Thuật ít nói, mà hễ nói là nói tới chuyện những ngày chú còn trẻ. Hồi thằng Nhược cho hay miếng đất chú đút đơn xin khẩn cập chưn núi Suối Đá không được huyện chấp nhận vì, “chú Năm biết không, chủ tịch xã có phê, thành phần không thích hợp với loại đất.” Năm Thuật chỉ chép miệng:

“Thì thôi!”

Nhưng một hồi rồi chú cũng thở dài:

“Giá tỉ như hồi tao còn làm Hiến Binh, ông Quận không chấp thuận chắc tao cũng không xin xỏ, năn nỉ gì đâu. Kệ!”

Cho tới khi đi coi miếng đất được nhà nước cứu xét và tự ý phân phối về, Năm Thuật vừa co chưn đá vô chưn bàn vừa nói với thằng Nhược:

“Tao dư sức phá miếng đất đó. Hồi trước, chục cây số tao đi bộ một hơi một. Rồi lúc sau này, thấy không, bao gạo chỉ xanh để trên vai tao coi như không có. Đồ ba cái thứ rễ bòng bong, mây nước đó mà, đâu có qua tao nỗi.”

Bây giờ là mùa mưa thứ tư rồi. Đất vẫn còn phèn và sát đằng sau vách chòi, hai bụi mây nước cháy đen thui chưa lấy gốc. Mùa mưa, xung quanh đó, những đọt mây non chồi đầu lên, một tuần lễ mà không cắt cỏ, gai cứng lại, vô ý mà đi, cọ ngang một cái, tuôn máu như chơi. Năm Thuật dù có thấy chướng mắt cỡ nào cũng phải chịu thua. “Thứ gì mà rễ nó bện lại thành lớp, thành lớp như bao bố tời. Cuốc xuống một cái, nó dội ngược trở lên, tức ngực.”

Trong đám khoai mì, ngó lơ ít lâu là bòng bong nó quấn lên tới đọt. Năm Thuật mới đầu còn cặm cụi soi, móc từng dây, riết rồi bỏ liều luôn. Có điều, Năm Thuật bỏ mà cứ nghĩ tới hoài.

Nhiều khi, chính Năm Thuật cũng biết như vậy là tự mình làm khổ mình, mà rồi gần như cái tật, hễ nghĩ tới đám khoai mì là thấy bực bực trong người. Chú nói với thằng Nhược, năm ngoái:

“Hết lứa này, dứt mùa mưa, lớn nhỏ gì tao cũng giỡ đám khoai rồi cuốc lại. Lần này thì phải ít nhứt là ba lưỡi… thử coi nó còn lú lên nổi không cho biết.”

Thằng Nhược hứa nhăng hứa cuội rằng sẽ “tiếp với chú, không phải chỉ đám đằng trước đó thôi, mà còn dài ra tới bờ mương chú dự định đào xong trong vòng mấy tháng nắng này.” Rồi thằng Nhược vượt biên, rồi Năm Thuật bỏ cuộc một cách dễ dàng một phần vì chán ngán cho chính mình.

Bữa nay gió bấc thổi già quá. Ngoài bìa vườn, những tàn tràm xum xê cành lá, nghiêng hết về con suối cạn. Nghe kỹ, có tiếng rít nhỏ mà cao vun vút, buồn quá. Gần Tết rồi. Cả một con đường mòn dài từ bìa lộ vô, bông da heo nở tím lịm. Trong này ngó ra, Năm Thuật có cảm tưởng như ngày nào, lâu rồi, ngồi dước gốc nhìn ngược những bực thang đất, đường lên chùa Sư Muôn. “Ừ, gần Tết, sim đã có đợt chín, mà cũng có đợt vừa mới trổ bông. Hồi đó, mình đâu có còn nhỏ gì, ngó người ta, từng cặp, từng cặp, vừa bẻ sim mà vừa cười nói, um sùm, cũng thấy vui.”

Thêm một cái Tết nữa không có thằng Nhược, chắc Năm Thuật buồn không thua gì năm ngoái. “Có nó, đánh cờ tướng sáng đêm cũng không thấy buồn ngủ. Không lẽ lội bộ ngược ra xóm, xa, mà cũng chẳng vui vẻ gì.” Tự nhiên, Năm Thuật nhớ thằng Nhược quá.

“Cái thằng! Làm biếng, chưa có ai làm biếng qua nó được.” Nhiều khi, chú ngó một chút rồi tự hỏi, thằng này như vầy thì làm sao mà sống được qua thời buổi này. Vậy mà nó vẫn phây phây, mới kỳ.

Hồi lúc hết thẩy những tiệm cà phê đều phải tạm ngừng bán để chuẩn bị cho việc thành lập các cửa hàng quốc doanh, thằng Nhược mất tiêu luôn cái nghề chạy bàn, cực chẳng đã, nó mới chịu nương thân, ăn nhờ ở đậu trong căn chòi ba vách của Năm Thuật mà theo nó, nó cho là một chỗ “chán chưa từng thấy” trong đời nó. Thấy chú làm việc mệt nhọc, có lúc làm như nó mắc cỡ, rán ra phụ được một chút, rồi kiếm chuyện này chuyện nọ, lủi mất. Mọi thứ, mọi việc nó đều có đủ lý lẽ để nói, nhưng ít khi nó chịu làm. Bữa nào vui vui, ngồi nghỉ xả hơi, thấy nó đứng chắp tay sau đít ngó ra ở đâu xa xa, chú kiếm chuyện nói, vì nghĩ rằng nó khoái nói chuyện. Mà thằng Nhược khoái thiệt.

“Nè, sao tự nhiên đám đậu phọng èo uột quá mà có một chỗ này xanh lè, lá nào lá nấy bự muốn gấp đôi… kỳ quá mầy, Nhược!”

“Chú Năm không nhớ là hồi trước, chỗ này chú để đống phân bò hay sao? Phân bò là phân tốt hạng nhứt mà, thứ gì cũng chịu nó hết. Mát, mà lại xốp đất. Cái thứ đất phèn này, phải cần nó cho nhiều mới được. Đáng lẽ mình phải chịu khó quẩy ky đi dọc dọc theo con lộ từ phi trường vô trong này, mỗi ngày ít nhứt cũng được hai gánh. Mà điều, để chú coi, vậy mà chỗ đó hột đậu lép xẹp. Người ta nói xấu dây mới tốt củ mà. Thứ đậu phọng này chịu phân tro lắm nghe chú Năm. Đáng lẽ mỗi buổi chiều, mình phải gom gom một ít đám cỏ mục lại đốt một đống ung, vừa vui mà vừa có thêm chút phân. Ở vườn, chiều mà có đống ung, khói nó bay cà chậm, cà chậm, thiệt, buồn cũng thành vui…”

Chuyện gì thằng Nhược nói cũng xuôi. Năm Thuật tưởng tượng thằng này mà chịu gánh hai cái ky không đi dọc dọc theo đường lộ, cũng là điều lạ rồi, nói chi tới chuyện nó vừa đi vừa cúi cúi cào phân bò vô ky, chắc trời sập. Năm bẩy ngày đầu lúc mới vô đây, thấy chú đốt cỏ, nó cũng ngồi một bên, cầm cây chọt chọt cầm chừng, nói chuyện người này với người kia chửi lộn, nói chuyện thằng nào đó ăn cắp đồ bị bắt, lên tới công an mà còn chối, nói đủ thứ chuyện. Chưa bao giờ chú thấy nó tự động đi ôm cỏ về mà gầy một đống ung ra làm sao. Vậy mà nó nói… Đáng lẽ, đáng lẽ…

Có một luống mía, trồng cùng lúc với mấy luống kia, mà sao cây lên lưa thưa, chỉ bằng phân nửa mấy luống khác. Thằng Nhược lại giải thích:

“Tui chắc hồi gạch mương để đặt ngọn xuống, luống này chú gạch sâu hơn mấy luống khác. Cái ngọn, chú đặt đứng quá, hai ba mắc nó mới lên một mục, chớ mấy. Nhưng mà chú coi, nó ít thành ra nó tốt hơn mấy luống khác thấy không. Đầy đủ phân mà… Nó còn lớn nữa đó nghe. Mấy luống kia cây nào cây nấy nổi mốc trắng hết rồi đó, vậy mà nó còn xanh dờn nghe. Đáng lẽ mới hết mưa như vầy, mình chịu khó đi từng luống giựt bỏ lá héo, cây nó mới mập được.”

Mỗi lần như vậy, Năm Thuật gật gù, rồi “hèn gì… hèn gì…” cho qua chuyện. “Nghe nó nói, cũng đỡ buồn!”

“Không biết hồi này nó ra làm sao rồi. Để coi, ngày mai con Nhu đem cái thơ vô, nó nói với mình cái gì.”

Trời tối, Năm Thuật trở vô chòi ngồi chồm hổm chụm lửa nấu nước trà. Vỏ tràm khô bốc cháy bừng bừng, mau tàn quá, chú phải ngồi luôn ở đó. Vậy mà qua ánh lửa, chú cười mỉm chi, không biết chú nghĩ tới cái miệng bép xép không thua gì thằng em con Nhu, nghĩ tới những lời kẽ cà trật cà vuột trong thư thằng Nhược, hay nghĩ tới cái réchaud nhập cảng đốt bằng dầu lửa của ông thư ký quận tặng “thầy Năm Hiến Binh” nhân cái dịp gần Tết như vầy, năm nào.

***

HAI

Năm Thuật múa xong đường quyền rồi mà cũng chưa chịu ngồi xuống, hai tay vẫn giữ nguyên cái thế nắm, để ngang thắt lưng, ngước mặt lên trời thở nhè nhẹ. Một chút, chú chắt lưỡi:

“Mười lần thì bị hết tám chín lần, kỳ thiệt!”

Con Nhu đỡ lời:

“Chắc tại lâu rồi chú không dợt lại, tay chân yếu đi. Theo lẽ cái hồi nhảy ngược về đàng sau, chú nên đứng thẳng lên rồi hãy nhảy. Như vậy chắc vững hơn.”

Năm Thuật bước tới vài bước, ngồi xuống cạnh con Nhu, vừa đưa tay vuốt ngược đầu tóc, vừa thở dài:

“Có lần tao cũng nghĩ như vậy, mà không phải như vậy. Xuống Trảo mã là phải xuống nhanh cấp kỳ như vậy mới phải. Thế đó không phải là thế công, cũng không phải là thế thủ, mà là một thế chuyển kín đáo nhứt. Chuyển để thủ mà cũng chuyển để công… Vậy mới kỳ. Để tới lúc phân thế ra, mầy mới thấy được. Cái nghề, người ta đã tính từng chút, từng chút. Tao mà xuống Trảo mã đúng cái lúc đó rồi, mầy đâu có biết tao sẽ lui nữa hay phóng ngược tới, phải không? Một lát tới phiên mầy, mầy thử đứng lên rồi mới nhảy lui, mầy sẽ thấy hở nhiều chỗ lắm. Giả tỷ, nháy con mắt một cái, tao chúi mình sát lại mầy, một tay gạt lên đầu đánh nhá hơi, một tay thoi vô bụng. Mầy nhảy về Trảo mã chưa kịp thì muốn khỏi mất thăng bằng, phải dùng cả hai tay mà gạt ra, tao sẽ nương theo đà ngã, lật giò đó một cái thốc trở lên là mầy bể be sườn liền, chịu gì nổi, muốn thử không?”

Năm Thuật say sưa nói trong khi con Nhu im lặng, nghĩ tới bộ dạng chậm chạp, mất thăng bằng của chú mà tự dưng đâm ra chán chường. “Ổng cầm ở lại thêm một ngày, nhứt định dạy cho được đường quyền, mà đâu có biết mình không muốn học chút nào. Người dạy cho dầu có tận tâm cách mấy mà người học như trả nợ quỷ thần, làm sao cho khá được. Đã vậy, ‘ông thầy’ lâu lâu, múa một hồi rồi tự nhiên quay qua than thân trách phận, nghe mà phát chán theo.”

Con Nhu liếc qua Năm Thuật. Dưới ánh trăng mờ mờ, nó thấy mồ hôi bóng loáng vừng trán nhăn nheo như của một ông già sáu bảy chục tuổi. Tự dưng, nó thấy buồn buồn, quay nhìn về hướng hàng tràm bìa rừng. Trăng sáng, mà yên tịnh quá. Tháng Chạp rồi mà trời còn trong vắt. Ở hướng Nam, chòm sao Thánh giá nhấp nháy.

“Để tui vô bắt ấm nước, pha trà uống nghe chú Năm.”

Con Nhu không chờ Năm Thuật trả lời, nó vừa nói vừa nhỏm dậy, dứt câu thì đã đứng hẳn lên rồi. Bộ dạng của nó cũng có vẻ thiểu não ghê lắm.

Khi cái áo bà ba nâu bạc thếch vừa khuất vô vách chòi. Năm Thuật đứng dậy, quờ tay làm lại cái thế chặt phựt ngang cổ một địch thủ tưởng tượng rồi dùn chân xuống câu tay hất ngược cùi chỏ trở lên và không cần chụm chân lại, nghiêng người nhảy ra đàng sau, chân trái trước, chân phải sau. Chú múa thiệt chậm, vậy mà tới lúc xuống tấn, cũng lại xiêu xiêu.

Năm Thuật chắc lưỡi, đứng dậy, đi thẳng vô chòi.

Ấm nước đang lên tiêm, nghe ồ ồ. Con Nhu nhụi thêm vô lò một nhúm vỏ tràm rồi quay qua Năm Thuật:

“Sao hồi trước chú Năm không dạy cho thằng Nhược. Nó có sức hơn tui, mà lại sáng dạ. Chắc học lẹ lắm.”

Năm Thuật ngồi lên sạp, quay mặt phun nước miếng cái bẹp:

“Thằng đó thì có ăn, chớ nó học nỗi gì.”

“Vậy chớ chú thấy tui làm sao? Cà quơ cà quơ, chú không chán sao? Mà tay chân thì yếu xìu.”

“Mầy thấy học được thì học, còn không thì thôi, tao đâu có ép.”

Năm Thuật nói lẫy rồi! Con Nhu im lặng hốt một nhúm trà bỏ vô bình, nghiêng ấm châm nước sôi vô, kéo cái ghế đẩu để giữa chòi, đặt bình trà lên rồi cúi mình xuống rổ chén lấy ra hai cái. Hồi lâu, nó nói nhỏ giọng:

“Tui định trong bụng cận ngày Tết, đem bánh tét vô cho chú rồi tui mới nói. Thôi sẵn đây tui nói cho chú nghe luôn. Vợ chồng tui tính đi bữa hăm chín. Anh Bồng thẻ mực bữa đó là bữa chót, khuya ảnh tấp vô bãi đón. Xuồng nhỏ lắm thành ra đâu có dám cho ai hay. Chỉ có thêm tui với con Sen, em của ảnh. Chú tính làm sao… cho tụi con biết, tụi con liệu.”

Con Nhu nói tới đó thì ngập ngừng, cúi mặt ngó xuống. Nó không thấy Năm Thuật đang giương hai con mắt thò lỏ ngó nó chập chạm. Hai người đều im lặng.

Cho tới khi Năm Thuật bật lửa xoèn xoẹt đốt thuốc hút, con Nhu nói tiếp:

“Tụi tui tính kỹ, bữa đó, công an nó không nghĩ là mình vượt biên đâu. Còn có một ngày nữa là Tết mà. Gói bánh tét đem theo cũng có cái cớ. Anh Bồng ảnh nói, ảnh chèo cao tay lắm là ba ngày thì cũng ra được tới lằn quốc tế. Chừng đó thiếu gì tàu…”

Năm Thuật bập bập điếu thuốc:

“Ừ, biển lúc này êm láng như trong sông.”

Con Nhu mạnh dạn hỏi:

“Chú có đi không, chú Năm?”

Năm Thuật im lặng, dựa ngửa xuống sạp, mơ màng nhả khói thuốc. Con Nhu chắc có ý để chú suy nghĩ nên bước xuống đất, đi lững thững ra ngoài sân. Nó có vẻ bình thản, quơ chân mạnh một cái, lá khô bị động, kêu xào xào. Năm Thuật ngước nhìn theo bóng nó, thở nhè nhẹ.

“Chuyện này không phải chuyện chơi đâu nghe, trật một cái là ân hận. Để coi, ở lại, lây lất rồi cũng hết một đời. Cái thứ mình, qua xứ người sống được không? Tiếng Tây tiếng u không biết, làm nặng không nổi… Để coi, miếng đất mình bây giờ thiệt thì cũng không có gì, sát nhập vô nông trường cũng có sao đâu, chỉ tiếc một chút công lao, mấy năm nay… Chà, còn những cái vướng vít nho nhỏ, làm sao cho yên. Thằng Nhược đi khỏi rồi mà lại muốn về là tại làm sao? Như nó còn khá, tới phiên mình không biết ra làm sao đâu. Mà sao tụi nó lại lựa ngày Tết ngày nhất này để đi, thiệt ai mà ngờ được. Tụi nó còn trẻ… Đáng lẽ lúc sau này, mình trở về quê ngó lại giòng họ bà con rồi mới tính tới được. Khó lòng quá.”

Năm Thuật đã bước xuống đất, chú dựa lưng vô cột chòi, thọc hai tay vô túi áo, ngó ra rừng. Con Nhu đang ngồi chỗ đám sả, thấy chú ra, nó quay lại:

“Để sáng tui tỉa bớt đám sả này gánh về chợ đếm lại cho người ta. Ba cái thứ lắt nhắt này chắc không bị thu mua đâu, hén chú Năm?”

“Ừ, mà mầy tỉa nhiều quá, thằng Ngạn trưởng xóm nó biết, nó hỏi lòng vòng khó lòng lắm. Nó ở cách đây bốn năm cây số mà tao trồng cái gì, nó cũng biết hết. Cái nào tốt, cái nào xấu nó cũng biết.”

Rồi Năm Thuật quay trở vô. Con Nhu cũng đứng dậy, bước theo. Năm Thuật ngửa cổ uống một hơi hết chén trà rồi đưa tay quẹt miệng, quay qua hỏi chậm:

“Sao tụi bây không để tới ra giêng?”

Con Nhu nín thinh.

“Ý tao chưa quyết, mà điều tao hỏi cho biết vậy thôi. Như tụi bây… Như tao… Bỏ xứ sở vô tới trong này, có bỏ nữa cũng vậy. Mà đi, xứ người ta, làm sao… Tao, thiệt, nghĩ hoài không ra.”

Năm Thuật có vẻ xúc động lắm nên hết nói nữa thì ngồi ịch xuống sạp. Con Nhu rót nước trà vô cái chén chú vừa uống cạn:

“Tui với anh Bồng cũng biết như vậy, mà rồi chú thấy không… Riết rồi có đủ thứ chuyện kẹt cứng. Ảnh nói, để dây dưa hoài có khi mình hết đường xoay sở thì chừng đó ân hận lắm. Thằng Nhược nó nói xách nói mé trong thơ, chứ chú cũng biết thì dù sao bên đó, đỡ hơn bên này nhiều thứ lắm.”

Con Nhu dần dừ thêm một hồi, ngó qua chỗ khác, nói tiếp:

“Con mắt mờ của chú, qua bên đó người ta trị, ba mươi giây hết liền, rồi tui biết chắc sức khỏe của chú cũng vậy, thuốc men người ta đầy đủ mà, chú lo gì. Qua đó, chú muốn đi đâu chú đi, không ai dám cản. Thằng Nhược, mới qua hai ba tháng, nó biết đủ thứ chuyện, chú không thấy sao.”

Năm Thuật đưa tay chà chà bên con mắt mờ. Đã mười mấy năm rồi, tuy nó lâu lâu có làm chú xốn xang chút ít nhưng nhờ nó, từ sau cái thời Hiến Binh được dẹp bỏ, người ta cho chú về làm ăn khỏi phải đi đánh giặc.

“Chà, chà. Con Nhu nói như một sự cố gắng, lần cuối. Thằng Nhược nó nói ở bên đó mà người ta còn nhập cảng lá tre khô cho người Việt mình để dành gói bánh tét nữa đó nghe chú Năm.”

Năm Thuật im lặng hồi lâu, rồi thở dài nằm xuống, nói khỏa lấp:

“Bánh tét thì phải gói bằng lá tre tươi, mà luộc thì phải luộc bằng củi, mới ngon, mới bùi được, phải không mậy, Nhu?”

Con Nhu dường như không để ý đến câu nói, nó gắng gượng kéo Năm Thuật về câu chuyện đang bỏ dở:

“Mai tui về chợ, có gì chú ra chú cho vợ chồng tui hay. Ý tụi tui là như vậy, tụi tui thương chú lắm, nghe chú Năm.”

Không nghe Năm Thuật trả lời, con Nhu kéo dài giọng:

“Chú tiếc gì mấy ngày Tết, chú Năm ơi.”

Năm Thuật im lặng, trong bóng tối chú ngẫm nghĩ: “Biết nó đi, rán dạy cho nó đường quyền, nó không chịu học, thì thôi!” Rồi chú rán nằm thiệt im, làm bộ ngủ, nhứt định quên hết mọi chuyện.


Nhân Văn, số 22, Xuân Giáp Tý, 1984.